NIÊN BIỂU LỊCH SỬ
Vào thời đại Đồ đồng đã ra đời một nền văn minh thống nhất và
độc đáo, đạt mức độ kỹ thuật và nghệ thuật cao, nền văn minh Đông Sơn rực rỡ.
Các nghiên cứu nhân chủng, lịch sử và khảo cổ gần đây đã khẳng định sự tồn tại
một thời kỳ các Vua Hùng khoảng 1000 năm trước Công nguyên trên Vương quốc Văn
Lang, sau đó đổi tên là Âu Lạc. Đến thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, Âu Lạc đã
bị xâm chiếm và sát nhập vào đế chế phong kiến Hán hùng mạnh ở phương Bắc.
Nhưng sự thống trị của phong kiến Trung Hoa kéo dài mười thế kỷ đã không bẻ gẫy
được sức kháng cự của dân tộc và không đồng hoá được nền văn hoá Việt Nam.
Vào thế kỷ thứ mười sau Công nguyên đất nước đã giành được độc
lập vững chắc và xây dựng một nhà nước độc lập mang tên Đại Việt. Đất nước đã
trải qua nhiều triều đại vua chúa phong kiến mà quan trọng nhất là triều Lý (thế
kỷ 11 và 12), triều Trần (thế kỷ 13 và 14), triều Lê (thế kỷ 15, 16 và 17) với
một nền hành chính tập quyền, một lực lượng quân đội mạnh, một nền kinh tế và
văn hoá phát triển cao. Trong suốt thời kỳ này, Việt Nam phải liên tục đấu
tranh chống lại các âm mưu xâm lược của các đế chế phong kiến Trung Hoa và Mông
Cổ. Các cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ chống quân xâm lược Tống (thế kỷ
11), Nguyên (thế kỷ 13), Minh (thế kỷ 15) đã giành những thắng lợi vang dội.
Sau mỗi cuộc kháng chiến, Việt Nam trở nên mạnh hơn, các dân tộc đoàn kết hơn
và đất nước bước vào một thời kỳ cường thịnh mới.
Nền văn hoá Đông Sơn được bổ sung bởi ảnh hưởng của văn hoá
Trung Hoa đã phát triển qua nhiều thế kỷ trong khuôn khổ một nhà nước độc lập.
Phật giáo, Nho giáo, Khổng giáo thâm nhập vào Đại Việt mang theo nhiều yếu tố
văn hoá quần chúng và nhiều hình thức đặc biệt. Tuy vậy, Việt Nam vẫn có ngôn
ngữ riêng và một nền văn minh nông nghiệp phát triển khá cao.
Đến thế kỷ 17 và 18, chế độ phong kiến Việt Nam suy yếu
nghiêm trọng. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục diễn ra đã dẫn đến phong
trào Tây Sơn (1771-1802). Tây Sơn đã tiêu diệt các chế độ vua chúa cát cứ, thống
nhất đất nước, đánh đuổi quân xâm lược Thanh (Trung Quốc) đồng thời ban hành
nhiều cải cách xã hội và văn hoá. Nhưng không lâu sau đó với sự giúp đỡ của ngoại
bang, Nguyễn Ánh đã giành được quyền thống trị và lập nên triều đình nhà Nguyễn,
triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Vào giữa thế kỷ 19 (1858), thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm chiếm
Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn bất lực đã dần dần nhân nhượng quân xâm lược và
từ năm 1884 Pháp thiết lập chế độ bảo hộ và thuộc địa trên toàn bộ lãnh thổ Việt
Nam. Ngay từ những ngày đầu, các phong trào kháng chiến quần chúng dưới sự lãnh
đạo của các sĩ phu yêu nước nổ ra ở khắp mọi nơi, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Nguyễn Ái Quốc, sau đó trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã hoạt
động ở nước ngoài để tìm con đường cứu nước. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam vào ngày 3/2/1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quần chúng nhân dân
đã đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật, thực hiện cuộc
Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ngày 2/9/1945.
Nước Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời lại phải đương đầu với
các âm mưu xâm lược và can thiệp của Pháp và Mỹ, phải tiến hành cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm sau đó. Trước hết, sự trở lại xâm
lược của Pháp đã gây ra cuộc kháng chiến 9 năm (1945-1954) của Việt Nam, kết
thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954.
Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và
miền Nam lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó
(1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ nay mang
tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động với Thủ đô là
Hà Nội. Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà nằm dưới sự quản lý của chính quyền
thân Pháp, rồi thân Mỹ đặt tại Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn sử dụng mọi sức mạnh
để ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bỏ những người kháng chiến cũ,
do vậy xuất hiện phong trào đấu tranh vì hoà bình, thống nhất đất nước. Chính
quyền Sài Gòn đã không thể ngăn cản được nguyện vọng thống nhất đất nước của quần
chúng, đặc biệt từ ngày Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được
thành lập, ngày 20/12/1960.
Để duy trì Chế độ Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự.
Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 60 Mỹ đã gửi nửa triệu quân Mỹ và đồng minh đến miền
Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến, và từ 5/8/1964 bắt đầu ném bom miền Bắc Việt
Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh "Không
có gì quý hơn độc lập tự do", đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở cả
hai miền Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc phải ký hiệp định Paris về lập lại
hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Mùa xuân năm
1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu
chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu
nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công đè bẹp Chính quyền Sài Gòn, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày 25/4/1976, nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên
thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền
Nam và Bắc.
Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.
Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề.
Từ năm 1975 đến 1986, Việt Nam phải đối phó với vô vàn khó khăn. Những hậu quả
và tệ nạn xã hội do chiến tranh để lại, dòng người tị nạn, chiến tranh ở biên
giới Tây Nam chống diệt chủng Khơme đỏ, chiến tranh ở biên giới phía Bắc, bao
vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây, thêm vào đó thiên tai liên tiếp xảy
ra... đã đặt Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt. Hơn nữa, những khó
khăn càng trầm trọng do xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan, nóng vội và duy
ý chí muốn xây dựng lại đất nước nhanh chóng mà không tính đến những điều kiện
cụ thể. Vào đầu những năm 80, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trở nên
gay gắt, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986.
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới
toàn diện nhằm vượt qua khó khăn, đi vào con đường phát triển và từng bước hội
nhập khu vực và quốc tế. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã
nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân
tích những sai lầm khuyết điểm, đề ra đường lối Đổi mới toàn diện trong đó đổi
mới kinh tế được đặt lên hàng đầu với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,
theo định hướng XHCN, đi đôi với việc tăng cường cơ sở pháp lý, đổi mới tổ chức
Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam thực sự mở cửa, chuyển từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp dựa trên việc nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài
sang cơ chế thị trường, tự chủ về tài chính nhằm cân bằng ngân sách nhà nước và
hướng tới xuất khẩu. Trước năm 1989 hàng năm Việt Nam đều phải nhập khẩu lương
thực, có năm trên 1 triệu tấn. Từ năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu 1-1,5
triệu tấn gạo mỗi năm; lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67,4%). Đời sống của
nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng, an
ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi tình trạng bao vây,
cô lập.
Tháng 6 năm 1991, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định lại quyết tâm tiếp tục chính sách Đổi mới của Việt Nam với mục tiêu vượt
qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn
định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa đất nước cơ bản ra khỏi
tình trạng khủng hoảng. Đại hội cũng đề ra chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ với mục tiêu Việt Nam "muốn
làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển."
Mặc dù bị tác động sâu sắc do việc Liên Xô, Đông Âu tan rã,
các thị trường truyền thống bị đảo lộn; tiếp tục bị bao vây cấm vận và phải đối
phó với các âm mưu hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch, Việt Nam đã từng bước khắc phục khó khăn, trở ngại, tiếp
tục giành nhiều thắng lợi to lớn. Từ năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng
năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng 6/1996, đầu tư trực
tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ mức 67,1% (1991) xuống
còn 12,7% (1995) và 4,5% (1996). Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải
thiện. Trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự
nghiệp giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt động văn hoá nghệ thuật thể
dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt
động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ. Chính trị ổn định, độc lập
chủ quyền và môi trường hoà bình của Việt Nam được giữ vững, quốc phòng an ninh
được củng cố tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc Đổi mới. Hệ thống
chính trị từ trung ương đến cơ sở được củng cố, bộ máy nhà nước pháp quyền được
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương
hoá và đa dạng hoá quan hệ của Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Đến
nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, có quan hệ buôn bán
với trên 100 nước. Các công ty của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực
tiếp vào Việt Nam.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, tháng 6/1996 đã
đánh giá những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng trong 10 năm Đổi mới
(1986-1996) và đề ra mục tiêu phát triển đến năm 2000 và 2020 là : đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Việt Nam đi theo thể chế phong kiến từ khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vào năm 968 ở Hoa Lư, mãi đến năm 1945 thì chấm dứt chế độ này, khi Bảo Đại nhà Nguyễn thoái vị ở kinh thành Huế. Chế độ này tồn tại hơn 1000 năm. Nhưng từ khi giành nền độc thời Ngô Quyền năm 938 thì mầm móng phong kiến đã xuất hiện.
Nhà Ngô và thập nhị sứ quân (938 - 967)
Nhà Đinh (968 - 980)
Nhà Tiền Lê (981 - 1009)
Nhà Lý (1009 - 1225)
Nhà Trần (1225 - 1400)
Nhà Hồ (1400 - 1407)
Nhà Hậu Trần (1407 - 1413)
Nhà Lê Sơ (1428 - 1527)
Nhà Mạc (1527 - 1677)
Vua Lê Chúa Trịnh (1533 - 1789)
Chúa Nguyễn và Nhà Nguyễn (1558 - 1945)
Nhà Tây Sơn (1776 - 1802)
Các vương triều Chămpa
Bộ tộc thiểu số
CÁC VƯƠNG TRIỀU PHONG KIẾN VIỆT NAM
Việt Nam đi theo thể chế phong kiến từ khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vào năm 968 ở Hoa Lư, mãi đến năm 1945 thì chấm dứt chế độ này, khi Bảo Đại nhà Nguyễn thoái vị ở kinh thành Huế. Chế độ này tồn tại hơn 1000 năm. Nhưng từ khi giành nền độc thời Ngô Quyền năm 938 thì mầm móng phong kiến đã xuất hiện.
Nhà Ngô và thập nhị sứ quân (938 - 967)
Nhà Đinh (968 - 980)
Nhà Tiền Lê (981 - 1009)
Nhà Lý (1009 - 1225)
Nhà Trần (1225 - 1400)
Nhà Hồ (1400 - 1407)
Nhà Hậu Trần (1407 - 1413)
Nhà Lê Sơ (1428 - 1527)
Nhà Mạc (1527 - 1677)
Vua Lê Chúa Trịnh (1533 - 1789)
Chúa Nguyễn và Nhà Nguyễn (1558 - 1945)
Nhà Tây Sơn (1776 - 1802)
Các vương triều Chămpa
Bộ tộc thiểu số
Nhận xét
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết.