Công cuộc cải tổ nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa


Vấn đề nghiên cứu về nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa nói chung, công cuộc cải tổ nền giáo dục đó nói riêng là một vấn đề đòi hỏi nhiều nguồn sử liệu cũng như việc tham khảo những ý kiến đánh giá xung quanh. Việc đánh giá một vấn đề quan trọng như sự thành bại của một nền giáo dục, đối với người nghiên cứu là sinh viên e vẫn còn quá sức . Chính vì vậy, Nhóm xin được phép trích lại toàn bộ những dự án Hệ thống giáo dục mới theo Đại hội Giáo dục Quốc gia lần II (1964), Hệ thống giáo dục cải tổ theo Chính sách Văn hóa Giáo dục (1972) của Hội đồng Văn hóa Giáo dục, Kế hoạch Phát triển Giáo dục 4 năm (1971 – 1975) của Bộ Giáo dục, Kế hoạch Giáo dục Quốc gia của Nhóm nghiên cứu hậu chiến, Hệ thống giáo dục theo một đề xuất cải tổ độc đáo của tư nhân,… trong “Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển”, số 7 – 8 (114 – 115), 2014, từ trang 32 – 42 như một cách để thông qua đó thể hiện những ý kiến đánh giá cũng như thông tin đa chiều về vấn đề này. Về mặt khách quan, việc đề cập đến công cuộc cải tổ cũng đồng thời nói lên đặc điểm của một nền giáo dục luôn hướng tới sự tiến bộ như nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa.

2.3.1. Dự án hệ thống giáo dục mới theo Đại hội Giáo dục Quốc gia lần II (1964)

Trong Đại hội Giáo dục lần II năm 1964, ông Trần Văn Kiện thay mặt Bộ Giáo dục đã trình bày việc cải tổ theo quan niệm mới bằng một dự án mới về hệ thống giáo dục. Dự án này dựa trên những khuyết điểm đã ghi nhận để đề ra các giải pháp thích nghi, đồng thời thể hiện những nguyên tắc và mục tiêu đặt ra. Theo đó, hệ thống giáo dục mới có 6 đặc tính như sau:
Thứ nhất,  gia tăng tính cách thuần nhất của hệ thống giáo dục, thể hiện về ba phương diện: tên lớp (các lớp Trung, Tiểu học, đề nghị lối mệnh danh của Hội nghị Quốc tế UNESCO, từ lớp 1 đến lớp 12); tổ chức (gia tăng sự phối hợp công tác giữa các cơ quan quản trị học đường,…); chương trình (nhấn mạnh tính cách liên tục của mỗi môn học, tránh học lại ở lớp trên những điều đã giảng dạy ở lớp dưới).
Thứ haiđi sát với thực trạng và nhu cầu địa phương. Đối chiếu với địa lý nước nhà, đề nghị chia các trường tiểu học thành bốn loại: đồng bằng, sơn cước, duyên hải, đô thị.
Thứ ba, thiết lập tổ chức hướng học và hướng nghiệp theo các nước tiên tiến. Trong 4 năm hiện thời của nền Trung học Đệ nhất cấp (tương đương phổ thông cơ sở bây giờ), 2 năm đầu (lớp Đệ thất, Đệ lục hay lớp 6 và 7) sẽ dành cho việc dự hướng, 2 năm sau (Đệ ngũ, Đệ tứ hay lớp 8 và 9) sẽ dành cho việc định hướng (chia ra 2 ngành văn chương mỹ thuật và khoa học kỹ thuật,…).
Thứ tư, tăng cường nền học chuyên nghiệp và kỹ  thuật ở Trung học Đệ nhị cấp (các lớp 10, 11 và 12), đối chiếu với nhu cầu của các ngành sinh hoạt, cùng các xi nghiệp công và tư. Nhưng vẫn cần phải thi hành ngay một số biện pháp như: tăng cường việc huấn luyện giáo chức chuyên nghiệp; nâng cao quy chế các giáo chức chuyên nghiệp; dành một tỷ lệ ngân sách cao hơn cho việc phát triển hệ thống chuyên nghiệp.
Thứ năm, thích nghi với như cầu quốc gia. Cần có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các cơ quan đào tạo cán bộ và các cơ quan sử dụng như công sở, xí nghiệp công và tư; Cần khuyến khích và tăng cường các việc sưu tầm, khảo cứu và sáng tác trực tiếp liên quan tới việc phát triển kinh tế và cải tiến dân sinh.
Cuối cùng, về nền Đại học, trong khuôn khổ chế độ tự trị, có thể đề ra và tiến hành một vài đường lối sau đây: tăng gia hiệu năng của trường đại học; tăng gia việc khảo cứu mọi vấn đề Việt Nam; bắt đầu xây dựng một nền Quốc học.
“Hệ thống giáo dục mà chúng tôi đề nghị, trước tiên nhằm mục đích giải quyết một số khuyết điểm hiện hữu, sau nữa đem lại trong nền giáo dục quốc gia một số chiều hướng cần thiết và tân tiến đề huấn luyện thanh thiếu nhi có hiệu năng hơn và thích ứng với nhu cầu quốc gia”.

2..3.2. Hệ thống giáo dục cải tổ theo Chính sách Văn hóa Giáo dục (1972) của Hội đồng Văn hóa Giáo dục

Tập tài liệu “Chính sách Văn hóa Giáo dục (1972)” do Hội đồng Văn hóa Giáo dục biên soạn có nhiều vấn đề hữu quan hệ và hệ thống giáo dục mới được cụ thể hóa những chi tiết rõ ràng hơn so với dự án hệ thống giáo dục mới theo Đại hội Giáo dục Quốc gia lần II (1964) đã trình bày ở trên. Về phần hệ thống giáo dục có đề cập đến những nguyên tắc cơ bản, tôn chỉ giáo dục, định hướng giáo dục. Cùng với đó là đề xuẩ những chính sách giáo dục với nhiều hình thức đào tạo, mô hình trường đào tạo từ tiểu học đến đại học như tiểu học cộng đồng, đại học cộng đồng, trung học tổng hợp, trường cao đẳng chuyên nghiệp, các viện, đại học bách khoa,…
Chính sách giáo dục cũng đề ra và tổ chức những chương trình giáo dục với mục tiêu, phương pháp cụ thể. Đối với giáo dục tiền học đường, bao gồm mầm non và mẫu giáo, nền giáo dục chú trọng trước hết đến sự chuẩn bị thích hợp cho trẻ em vào đời. Còn ở giáo dục phổ thông, nội dung chương trình phổ thông chia thành 3 cấp với 3 mục tiêu cụ thể: Cấp I từ lớp 1 đến lớp 5, có tính cách cưỡng bách đối với trẻ em từ 6 đến 11 tuổi; Cấp II từ lớp 6 đến lớp 9, trong vòng 10 năm tới (tính từ  năm 1972) cũng có tính cách cưỡng bách đối với thiếu niên dưới 15 tuổi; Cấp III là lớp 10 đến 12. Về giáo dục chuyên môn, bao gồm đại học, giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục nghệ thuật. Dựa trên nguyên tắc tự trị đại học, trong đó tự trị học vụ là một phần chủ yếu, mỗi viện đại học sẽ hoạch định chương trình giảng dạy và nghiên cứu, nhưng tránh sự trùng dụng với viện đại học khác. Đồng thời, chương trình phải phù hợp với hoàn cảnh quốc gia, cùng nhu cầu và điều kiện địa phương. Trong giáo dục chuyên nghiệp, việc đào tạo cán bộ và chuyên viên cho các lĩnh vực chuyên nghiệp là rất thiếu yếu và cấp bách cho kế hoạch phát triển quốc gia. Ở Việt Nam, giáo dục nông nghiệp được xem là quan trọng vì phát triển nông nghiệp được coi là phần trọng yếu cho công cuộc phát triển kinh tế và cải tạo xã hội. Giáo dục đại chúng cũng là một nội dung nằm trong chương trình giáo dục được đề ra với mục tiêu là dạy cho những người thất học, giúp họ thoát được nạn mù chữ và có cơ hội học hỏi thêm những điều bổ ích thiết thực cho cuộc sống của họ; giúp sinh viên và học sinh bị dang dở học hành vì nghĩa vụ quân dịch; giúp người cha và người mẹ tương lai biết tổ chức gia đình và sinh dưỡng con cái; giúp những nhóm người trong cộng đồng quốc gia có cơ hội giải quyết các nhu cầu học vấn của giới họ về văn hóa tổng quát cũng như chuyên nghiệp; hướng dẫn thanh thiếu niên trong các lĩnh vực sinh hoạt ngoài học đường,…
Chính sách giáo dục cũng chú trọng đến việc đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật thuộc nhiều ngành nghề khác nhau. Cùng với đó là nêu lên nhiệm vụ và sứ mệnh của giáo chức, và đi đôi với nó là phải đảm bảo được quyền lợi của giáo chức là hưởng được một quy chế phù hợp với họ trong xã hội. Họ phải được đãi ngộ xứng đáng để có thể chuyên tâm vào sự nghiệp giáo dục và có một cuộc sống tương xứng với mình trong xã hội
Vấn đề tư thục cũng là một trong những chính sách giáo dục nằm trong hệ thống giáo dục cải tổ của Hội đồng Văn hóa Giáo dục. Họ nêu lên những nguyên tắc căn bản về tư thục, trong đó có nguyên tắc tự do giáo dục, mọi công dân, mọi đoàn thể đều có quyền mở trường để truyền bá học vấn theo những lí tưởng nhằm phục vụ quốc gia hay đường hướng mà Chính sách Văn hóa Giáo dục đề ra, miễn là thể nhân hay pháp nhân đó hội đủ các điều kiện pháp lý mà luật lệ quốc gia quy định. Cùng với đó, là những quyền hạn và nhiệm vụ của tư thục. Đối với trường ngoại quốc trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa các trường Cao đẳng kĩ thuật và chuyên nghiệp, các trường đại học chuyên khoa ngoại quốc cần thiết cho nhu cầu phát triển quốc gia, với điều kiện: phải có sự hỗ tương về quyền lợi giữa Việt Nam và quốc gia liên hệ; phải có sự kiểm soát chặt chẽ và hữu hiệu của chính quyền để sự hoạt động của các trường này không phản lại tinh thần dân tộc và không làm cản trở sự phát triển của Đại học Việt Nam.

2.3.3. Tập dự thảo “Kế hoạch phát triển giáo dục 4 năm (1971 – 1975) của Bộ Giáo dục

Tập dự thảo dày trên 70 trang, đã được đăng nguyên văn trên Giáo dục nguyệt san số 59 – 60, tháng 6, 7 – 1972, gồm 3 phần chính: Hiện trang giáo dục (2 trang); Chính sách và quan niệm phát triển giáo dục (3 trang); Chương trình phát triển giáo dục (45 trang). Phần còn lại là bản phụ đính. Phần I, bản dự thảo nêu lên những thành quả mà nền giáo dục đã đạt được từ niên khóa 1967 – 1968 trong các ngành Tiểu học, Trung học, Đại học, Giáo dục tráng niên, Giáo dục phụ nữ. Tuy nhiên, còn nhiều trở ngại và sẽ được khắc phục, cải thiện. Phần II đưa ra 3 mục tiêu của nền giáo dục: Phát huy năng khiếu cá nhân; Thích ứng cá nhân với xã hội; Phát huy tinh thần quốc gia. Để thực hiện những mục tiêu trên, chính sách giáo dục của Việt Nam là phải áp dụng một nền giáo dục đại chúng và thực dụng. Phải thực dụng để đi sát với hoàn cảnh đất nước, vì vậy phải lo phát triển: Giáo dục cộng đồng cấp I; Giáo dục kĩ thuật và chuyên nghiệp cấp II; Đại học bách khoa. Phần III là Chương trình phát triển giáo dục được trình bày riêng rẽ thành 8 mục (từ A đến H), theo đó: (A) Bậc Tiểu học (Mục tiêu phát triển, Chương trình phát triển, Thực hiện); (B) Ngành Trung học Phổ thông và Tổng hợp; (C) Ngành Giáo dục kỹ thuật, Chuyên nghiệp và Nông lâm súc; (D) Ngành Đại học; (E) Giáo dục Tráng niên; (F) Thanh niên học đường; (G) Kỹ thuật Giáo dục; (H) Tài trợ.
Tuy nhiên, bản dự thảo trên đây có vẻ thiếu thực tế, không có tính khả thi, vì đã được xây dựng trên một căn bản không vững chắc về điều kiện vật chất để thi hành. Tính bất khả thi này đã được một tác giả đương thời đưa ra phân tích, phê phán, với lời kết luận: “Công việc soạn thảo một kế hoạch không phải là chỉ đưa ra những mục tiêu tốt đẹp để mọi người coi cho sướng mắt,… Nếu sau này chúng ta nhận thấy 70% kế hoạch không thực hiện được và 30% chưa thực hiện xong, thì ít ra đó là đầu dây của mọi thống khổ trong nước, đó là kết quả của sự làm việc thiếu căn bản mà việc kiểm thảo, bất giờ trên nên vô ích”[1].

2.3.4. Kế hoạch Giáo dục quốc gia của nhóm Nghiên cứu hậu chiến

Bản kế hoạch này chỉ mới được soạn ra để chuẩn bị cho giai đoạn “hậu chiến”, theo nghĩa dự kiến chiến tranh sắp chấm dứt nhưng miền Nam vẫn thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam. Trên thực tế không có điều kiện để áp dụng, nhưng cũng xin sơ lược những ý chính của các nhà hoạch định giáo dục miền Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên, nếu đặt trong bối cảnh “hậu chiến” nói chung, sau khi hòa bình lập lại, không phân biệt thắng lợi của cuộc chiến tranh nghiêng về bên nào, thì bản kế hoạch này cũng có vài điểm đáng để tham khảo.
Tổng quát, kế hoạch giáo dục hậu chiến cũng chỉ tham khảo, kế thừa và hệ thống hóa, cụ thể hóa hơn nữa một số đề xuất đã có từ  Đại hội Giáo dục Toàn quốc 1964, hoặc nhắc lại với yêu cầu phải hoàn thiện hơn nữa đối với một vài kế hoạch đã  hoặc đang thực hiện còn dang dở (Tiểu học cộng đồng, Trung học tổng hợp…):  “Nhằm mục đích bồi dưỡng tiềm năng nhân lực trong công cuộc tái thiết quốc gia và phát triển kinh tế”. Ý tưởng chính của nền giáo dục hậu chiến là giáo dục phải được kế hoạch hóa cấp quốc gia, sao cho việc huấn luyện ở học đường và việc đào tạo chuyên viên mọi ngành phải phù hợp với nhu cầu thực tế của công cuộc tái thiết và phát triển. Trong 10 năm, kế hoạch nhắm tới cưỡng bách giáo dục ở bậc Tiểu học với khuynh hướng giáo dục cộng đồng, Trung học chuyển thành giáo dục tổng hợp và Đại học hướng về thực nghiệp.

2.3.5. Hệ thống giáo dục theo một đề xuất cải tổ độc đáo của tư nhân

Học giả - nhà Giáo dục Nguyễn Hiến Lê (1912 – 1984) trong bài “Một nền giáo dục phục vụ” đăng trên tạp chí Bách khoa số ngày 15 – 9 – 1967 (sau in lại trong “Vài lời ngỏ với bạn trẻ”, sđd, Tr. 135 – 147, ông cho rằng kinh tế có tiến bộ thì mới có những tiến bộ khác về xã hội, chính trị, văn hóa. Mà muốn vậy thì phải đào tạo một lớp thanh niên có một vốn lĩ thuật đủ dùng, có phương pháp làm việc, có tinh thần phục vụ. “Tương lai dân tộc một phần lớn tùy thuộc hạng thanh niên đó và học đường ở bất kì cấp nào cũng phải nhằm mục đích đào tạo họ”.
Trước tình trạng không ít sinh viên đại học ngành Dược, ngành Y,… tốt nghiệp ra trường chỉ biết chạy theo đồng tiền mà thiếu tinh thần phục vụ, thậm chí táng tận lương tâm chức nghiệp, tác giả bài viết quan niệm cần phải có cán bộ đủ mọi ngành, mọi cấp và mỗi cán bộ phải có tinh thần phục vụ thì nước Việt Nam mình mới tồn tại được. Từ đó, ông mạnh dạn đưa ra chủ trương: Cần có nhiều cán bộ được việc nhất, nhất là hạng cán bộ nông thôn, vậy cứ lập những trường gọi là trường Cán bộ hay trường Phục vụ, trường Cứu quốc…gì gì đó, miễn đừng dùng những tên cũ: Trung học, Đại học, Cao đẳng. Sẽ có những trường cán bộ cấp I, cấp II, cấp III hoặc Phục vụ I, II, III… “…Danh có chính thì ngôn mới thuận, nếu cứ gọi là Trung học, Đại học, thì người ta chỉ nghĩ tới chuyện học để lên cấp trung cấp đại, rồi ra kiếm tiền cho được ‘dại’, để thành đại phú, đại sư, đại sứ…chứ không nghĩ tới chuyện phục vụ, cứu quốc… Những trường Cán bộ hay Phục vụ gì đó sẽ có một chương trình khác: bỏ hết những cái gì không có lợi ích thiết thực, những cái phù phiếm đi (sau này khi nào chúng ta tấn bộ kha khá rồi sẽ nghĩ tới cái phù phiếm vì…cũng có ích nếu hợp thời); sẽ có một lối dạy khác: Chẳng hạn 3 tháng lý thuyết thì lại vài tháng thực tập trong xưởng, ở đồng ruộng hoặc trong công sở. Có thể bãi bỏ các kỳ thi trên lớp, ra trường, cứ căn cứ vào cái điểm về lý thuyết, nhất là về thực tập mà cho lên lớp, như vậy tất nhiên là bãi bỏ luôn được cả bằng cấp” “Hết cấp II, hoặc ngay ở đầu cấp III,… người ta sẽ lựa một số học sinh thông minh, có năng khiếu riêng, có óc suy xét tìm tòi, có sáng kiến, để đào tạo trong những lớp riêng, sau này thành những học giả, những nhà nghiên cứu, những nghệ sĩ…”.
Theo tác giả bài viết, về bằng cấp, Việt Nam không cần những bằng cấp tương đương với Âu Mỹ. Về việc du học thì đưa sinh viên đi du học nước ngoài càng nhiều càng tốt, nhưng chỉ cần vào xưởng, vào trại ruộng,… học những nghề thực dụng chứ không cần bằng cấp.
Như vậy, khách quan nhìn nhận các dự thảo về chính sách giáo dục của chính phủ hay ý kiến cá nhân viết trên cái bài báo, tạp chí; chúng ta đều nhìn nhận thấy một số điểm chung tiến bộ là hầu hết đều phê phán lối học từ chương tách rời hiện thực kinh tế - xã hội, từ đó đòi cải cách chương trình giáo dục và đơn giản hóa việc thi cử; kêu gọi hướng tới một nền giáo dục đại chúng và thực dụng coi trọng chuyên nghiệp, kĩ thuật để đào tạo chuyên viên cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế quốc gia; địa phương hóa giáo dục để thích nghi với đời sống thực tế của từng địa phương trong những môi trường sinh hoạt khác nhau,… Điều đáng ghi nhận là hầu như tất cả những ý kiến phê bình, đóng góp như trên đều được giới hữu trách giáo dục lưu ý và có thực tâm sửa đổi dần dần dù có hơi chậm.



  1. Trần Nho Mai, “Vài nhận xét về Dự án Kế hoạch phát triển giáo dục bốn năm”, Giáo dục nguyệt san số 59-60, tháng 6-7.1972, tr. 62 - 63.
  2. Trần Ngọc Ninh (1970), Cải tổ giáo dục, NXB Thăng Tiến, 1970.
  3. Nguyễn Quỳnh Giao (1970), Cải tổ giáo dục, Thăng tiến xuất bản, Sài Gòn.





Nguyễn Thị Hồng Diệu
Trích dẫn bài tiểu luận Những đặc điểm của giáo dục miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa (viết chung)

Nhận xét