Việt Nam dấu tranh giữ vững an ninh biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Campuchia loại trừ chế độ diệt chủng Pôn pốt
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước kết
thúc thắng lợi trên bán đảo Đông Dương, chính quyền Campuchia Dân Chủ do Pôn Pốt
cầm đầu thực hiện chính sách diệt chủng đối với đồng bào của họ, đồng thời tiến
hành những hành động phiêu lưu quân sự chống Việt Nam.
Miền Nam Việt Nam vừa được giải phóng ngày 30 tháng Tư 1975,
thì ngày 1 tháng Năm 1975, tập đoàn Pôn Pốt đã dùng lực lượng quân sự tấn công,
xâm phạm lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh.
Cùng với việc thanh trừng nội bộ, chính quyền Pôn Pốt xua đuổi
và giết hại Việt Kiều sinh sống hợp pháp trên đất Campuchia từ nhiều năm, chuyển
dân Campuchia sống ở ùng biên giới với Việt Nam vào trong nội địa Campuchia và
từ thành phố về nông thôn.
Sau sự kiện nghiêm trọng xảy ra trên biên giới hai nước, tháng
Sáu 195, nhận lời mời của Đảng Lao Động Việt Nam, Đoàn đại biểu Đảng Công sản
Campuchia (tên gọi công khai của Đảng này từ năm 1975 là Tổ chức Cách mạng
Campuchia) do Pôn Pốt, Bí thư Trung ương Đảng, dẫn đầu, thăm chính thức Việt
Nam. Trong hội đàm, phía Campuchia gợi ý hai nước kí một hiệp ước hữu nghị. Về
vấn đề biên giới, Pôn Pốt chỉ nêu chung chung. Đáp lại, Bí thư thứ nhất Đảng
Lao động Việt Nam Lê Duẩn hoan nghênh việc hai nước ký hiệp ước hữu nghị và nói
rõ ràng hai bên đều phải tôn trọng nền độc lập của nhau, tôn trọng đất đai của
nhau, có như vậy mới đoàn kết được chặt chẽ, mới giữ được tình nghĩa anh em giữa
nhân dân hai nước. Tiếp theo đó, tháng Tám 1975, Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Lao
Động Việt Nam do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dẫn đầu thăm Campuchia, phía Việt Nam
đồng ý trao trả số quân dân Campuchia bị bắt khi họ tiến công đảo Thổ Chu và bị
quân đội Việt Nam truy kích đến đảo Way.
Tháng Ba 1976, Nuôn Chia, Phó Bí thư Đảng Cộng sản
Campuchia, gửi thư cho Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Hùng, là người quen biết
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đề nghị có cuộc gặp mặt cấp cao hai đảng về
vấn đề biên giới và đề nghị có cuộc gặp trù bị để chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao.
Ngày 6 tháng Tư 1976, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi điện cho Trung ương
Đảng Cộng sản Campuchia tán hành đề nghị đó và thảo thuận cuộc gặp sẽ tiến hành
vào tháng Sáu 1976. Từ ngày 4 đến 18 tháng Năm 1976, Thứ trưởng Bộ ngoại giao
Việt Nam dẫn đầu đoàn sang Campuchia hợp trù bị cho hội nghị cấp cao. Tại cuộc
hợp trù bị này, phía Pôn Pốt đồng ý lấy đường biên giới trên đất liền theo bản
đồ Pháp tỷ lệ 1/100.000 thông dụng trước năm 1954 nhưng lại đòi Việt Nam phải
chấp nhận bộ bản đồ do Campuchia đưa ra có chín chỗ bị cạo sửa và đòi lấy đường Brévié làm đường biên giới trên biển.
Cuộc đàm phán vì vậy thất bại và không tiến hành được cuộc gặp cấp cao hai đảng.
Hai bên chỉ thỏa thuận được ba biện pháp tạm thời do đoàn Việt Nam đề nghị:
- Hai bên giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nước mình ở
biên giới tăng cường đoàn kết, hữu nghị và tránh va chạm.
- Mọi va chạm phải được giải quyết trên tinh thần đoàn kết,
hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau.
- Ban liên lạc hai bên tiến hành điều tra các vụ va chạm và
gặp nhau để giải quyết.
Việt Nam đã nghiêm chỉnh thực hiện các biện pháp tạm thời được
hai bên thỏa thuận, duy trì tiếp xúc với Ban liên lạc biên giới của phía
Campuchia. Ngược lại, phía Campuchia vẫn tăng cường các hành động tấn công, xâm
lấn lãnh thổ và giết hại dân thường Việt Nam ở biên giới.
Sang năm 1977, tình hình biên giới Việt Nam – Campuchia ngày
càng xấu đi do những hành động tăng cường xâm lấn của phía Campuchia. Ngày 30
tháng Tư 1977, quân Pôn Pốt đồng loạt tiến công 14 xã trên tuyến biên giới thuộc
tỉnh An Giang, mở đầu cuộc chiến tranh quy mô lớn trên biên giới Tây Nam Việt
Nam.
Trước tình hình nghiêm trọng đó, ngày 7 tháng Sáu 1977, Ban
Chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam gửi thư cho Ban chấp
hành Trung ương Dảng Cộng sản Campuchia và Chính phủ Campuchia Dân chủ đề nghị
có cuộc hội đàm càng sớm càng tốt giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Chính phủ
ở Phnôm Pênh, Hà Nội, hay bất cứ nơi nào khác do hai bên thỏa thuận. Ngày 18
tháng Sáu 1977, phía Campuchia Dân Chủ trả lời: “Chờ một thời gian cho tình
hình bình thường trở lại và những xung đột ở biên giới được chấm dứt sẽ gặp gỡ
cấp cao”.
Một mặt từ chối thương lượng, mặt khác Pôn Pốt tiếp tục cho
quân tấn công biên giới Việt Nam. Ngày 18 tháng Bảy 1977, lực lượng vũ trang của
Campuchia Dân Chủ đồng loạt tấn công trên chiều dài 40 km vào tỉnh Kiên Giang,
pháo kích nhiều lần vào thị xã Châu Đốc. Trên quốc tế, họ vu khống Việt Nam.
Phát biểu tại Đại hội Đồng Liên hợp quốc, Iêng Xary ám chỉ Việt nam xâm lược
Campuchia. Ngày 26 tháng Chín 1977, sau một thời gian nghỉ ốm, Pôn Pốt xuất hiện
trở lại, tuyên bố Đảng Cộng sản Campuchia ra công khai và đi thăm chính thức
Trung Quốc. Cùng thời điểm đó, Pôn Pốt cho một lực lượng lớn quân đội tấn công
toàn tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh, sát hại thường dân Việt Nam.
Trước những hành động xâm lấn, gết hại đồng bào Việt Nam ở
biên giới Tây Nam, các lực lượng vũ trang Việt Nam sử dụng quyền tự vệ đánh trả
kẻ xâm lấn, bảo vệ lãnh thổ, tính mạng, tài sản và cuộc sống hòa bình của nhân
dân.
Ngày 31 tháng Mười hai 1977, chính quyền Pôn Pốt chính thức
ra tuyên bố vu cáo Việt Nam xâm lược Campuchia, cắt quan hệ ngoại giao với Việt
Nam, rút sứ quán Campuchia ở Hà Nội và yêu cầu tất cả cán bộ ngoại giao của sứ
quán Phnôm Pênh về nước. Cùng ngày, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố vạch rõ thái
độ và hành động của phía Campuchia khiêu khích và tấn công xâm lược lãnh thổ Việt
Nam, việc Việt Nam đánh trả là hành động tự vệ và tỏ thiện chí muốn giải quyết vấn
đề biên giới giữa hai nước bằng thương lượng hòa bình, đề nghị hai bên gặp nhau
càng sớm càng tốt ở bất cứ cấp nào để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước
trên tinh thần “hữu nghị, anh em”. Campuchia bác bỏ đề nghị thương lượng hòa bình.
Tiếp theo đó, Việt Nam liên tiếp đưa ra các đề nghị đàm
phán, đặc biệt quan trọng là Tuyên bố ngày 5 tháng Hai 1978 của Chính phủ Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quan hệ Việt Nam – Campuchia, bày tỏ thiện chí
thật sự mong muốn chấm dứt xung đột, giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước
bằng thương lượng hòa bình. Bản Tuyên bố đưa ra đề nghị ba điểm:
- Chấm dứt mọi hành động quân sự thù địch ở vùng biên giới,
lực lượng vũ trang mỗi bên đómg sâu trong lãnh thổ của mình, cách đường biên giới
5lm.
- Hai bên gặp nhau ngay để bàn bạc, ký Hiệp ước hữu nghị và
không xâm lược nhau và Hiệp ước hoạch định biên giới.
- Hai bên thỏa thuận một hình thức thích hợp bảo đảm quốc tế
và giám sát quốc tế.
Đề nghị ba điểm của Việt Nam được dư luận quốc tế hoanh
nghênh.
Phía Pôn Pốt bác bỏ đề nghị trên. Theo gợi ý của Lào, ngày
10 tháng Tư 1978, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Duy Trinh gửi
công hàm nhờ Lào chuyển cho Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia Iêng Xary nhắc lại đề
nghị ba điểm. Ngày 15 tháng Năm 1978, Bộ ngoại giao Campuchia gửi công hàm trả
lời, vu khống Việt Nam xâm lược. có ý đồ thành lập Liên Bang Đông Dương, đồng
thời đòi Việt Nam thực hiện một số điều kiện trong thời hạn bảy tháng (đến cuối
năm 1978) thì hai bên mới có thể gặp nhau. Các điều kiện đó là: Việt Nam chấm dứt
mọi hành động xâm lược; chấm dứt ý đồ lập Liên Bang Đông Dương; tôn trọng chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ Campuchia. Ngày 6 tháng Sáu 1978, Bộ ngoại giao Việt
Nam một lần nữa gửi công hàm cho Bộ ngoại giao Campuchia nhắc lại đề nghị ba diểm
ngày 5 tháng Hai 1978, và đề nghị hai bên tuyên bố chấm dứt hoạt động thù địch ở
vùng biên giới vào một ngày gần nhất mà hai bên thỏa thuận, tách quân khỏi biên
giới 5km; cùng ngày đại diện ngoại giao hai bên tại Viêng Chân hoặc bất cứ thủ
đô nào gặp nhau để thỏa thuận ngay, ngày, giờ, địa điểm, cấp bậc cuộc hợp giữa
đại diện hai Chính phủ.
Mọi
cố gắng đề nghị thương lượng của Việt Nam đều bị bác bỏ, kể cả các đề nghị
thông qua trung gian của Liên hợp quốc và Phong trào Không liên kết. Trong khi
đó, những cuộc tiến công của quân Pôn Pốt giết hại người Việt Nam ở biên giới
ngày càng nghiêm trọng, điển hình là vụ thảm sát ở xã Ba Chúc (An Giang) và cuộc
pháo kích kéo dài bằng đại bác 130 ly vào thị xã Châu Đốc. Tại Hội nghị ngoại
trưởng các nước Không liên kết Belgrade ngày 27 tháng Bảy 1978, Ngoại trưởng
Campuchia Iêng Xary vu cáo Việt Nam và bác bỏ thông cáo của hội nghị kêu gọi
hai nước thương lượng.
Trung
tuần tháng Mười hai 1978, chính quyền Pôn Pốt tập trung 19 trong tổng số 25 sư
đoàn chủ lực ở biên giới Campuchia – Việt Nam. Ngày 23 tháng Mười hai 1978,
quân Pôn Pốt tiến công thị trấn Bến Sỏi (Tây Ninh) với mục tiêu đánh chiếm Thị
xã Tây Ninh. Bọn diệt chủng Pôn Pốt còn vạch ra kế hoạch tấn công quy mô rộng lớn
hơn nhằm tấn công Thành phố Hồ Chí Minh. Người 25 tháng Mười hai 1978, bộ đội
chủ lực Việt Nam đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước
Campuchia được thành lập ngày 2 tháng Mười hai 1978do ông Heng Samrin làm chủ tịch,
đã phối hợp với lực lượng vũ trang của mặt trận phản công. Ngày 2 tháng Giêng
1979, toàn bộ vùng phía đông Mê Kông được giải phóng. Ngày 7 tháng Giêng 1979,
lực lượng Việt Nam và lực lượng Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia giải
phóng thủ đô Phnôm Pênh.
Ngày
8 tháng Giêng 1979, Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia tuyên bố thành
lập Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia và ngày 10 tháng Giêng 1979, nhà nước
Cộng hòa Nhân dân Campuchia ra đòi. Lực lượng của Pôn Pốt bị tiêu diệt một phần,
phần lớn tan rã tại chỗ hoặc chạy sang các nước láng giềng phía tây. Các lực lượng
còn lại của Pôn Pốt về sau tập hợp lại, chuyển sang đánh du kích.
Phản
ứng quốc tế đối với việc Việt Nam dưa quân vào Campuchia nói chung không thuận.
Chỉ có Liên Xô, Lào và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ra tuyên bố ủng hộ.
Đi
đôi với việc lên án Việt Nam đưa quân vào Campuchia và đòi Việt Nam rút quân,
các thế lực thù địch đã tiến hành tập hợp lực lượng thực hiện chính sách bao
vây cấm vận nhằm làm suy yếu và tạo sức ép với Việt Nam.
Trước
tình hình đó, nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao Việt Nam là đấu tranh chống lại
âm mưu của các thế lực thù địch bao vây, cấm vận Việt Nam và tăng cường phối hợp
giữa ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia trong các hoạt động quốc tế. Đồng thời
cùng với các bạn bè quốc tế, Việt Nam ra sức giuasp nhân dân Campuchia khôi phục
hậu quả do chế độ diệt chủng để lại, xây dựng đời sống kinh tế, xã hội mới, góp
sức giúp đất nước Campuchia hồi sinh.
Sau
khi Campucha được giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt, theo yêu cầu của
Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia, Việt Nam để lại một lực lượng quân đội
và cử chuyên gia các ngành dân sự sang giúp nhân dân Campuchia ổn định tình
hình và xây dựng lại đất nước. Quân đội Việt Nam phối hợp với các lực lượng của
Cộng hòa Nhân dân Campuchia tiếp tục truy quét tàn quân Pôn Pốt, duy trì ổn định,
bảo đảm an ninh xã hội và khắc phục nạn đói cho bốn triệu dân Campuchia. Với nỗ
lực to lớn của chính quyền mới và của nhân dân Campuchia, được sự giúp đỡ của
Việt Nam, Liên Xô và các nước bè bạn, đời sống của người dân Campuchia dần dần
trở lại bình thường. Chợ búa, trường học, bệnh xá bị Pôn Pốt xóa bỏ được phục hồi.
Nhân dân Campuchia tiến hành tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội. Ngày 24 tháng Sáu
1981, Quốc hội thông qua Hiến pháp của nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia, cử ra Hội
đồng nhà nước và Hội đồng bộ trưởng của Campuchia.
Về
đối ngoại, ngay sau khi thành lập nhà nươc mới, Campuchia đã thiết lập quan hệ
chính thức với Việt Nam. Ngày 12 tháng Giêng 1979, hai nước trao đổi đại sứ.
Ngày 17 và 18 tháng Hai 1979, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam do Thủ tướng Phạm
Văn Đồng dẫn đầu tới Phnôm Pênh thăm chính thức Campuchia. Nhân dịp này, hai nước
đã ký hiệp ước hòa bình hữu nghị và hợp tác.
Hiệp
ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác Việt nam – Campuchia góp phần khôi phục mối
quan hệ hữu nghị láng giềng thân thiện và hợp tác giữa hai nước.
Liên
Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Apganixtan, Hunggari, Ba Lan, Tiệp Khắc, Mông Cổ,
Cuba, Êtioopia, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Yêmen, Xâysen, Cộng hòa Cônggô,
Bênanh, Cộng hòa Nhân dân Ănggôla, Mali, Ấn Độ lần lượt công nhận Cộng hòa Nhân
dân Campuchia.
Tháng
Tám 1979, Cộng hòa Nhân dân Campuchia lập tòa án quốc tế xét xử tội ác diệt chủng
của Khơme Đỏ.
Cuộc
đấu tranh về chiếc ghế của Campuchia tại Liên hợp quốc và Phong trào Không liên
kết diễn ra gay gắt. Lực lượng Pôn Pốt sống ở vùng đất thánh trên lãnh thổ nước
láng giềng phía tây, dựa vào sự hỗ trợ của nước ngoài, liên kết với phái Hoàng
gia và phía Son San thành lập chính quyền ba phái ngày 22 tháng Sáu 1981, đã
giành ghế của Campuchia tại Liên hợp quốc/ Hội nghị cấp cao các nước Không liên
ết hợp tại La Habana tháng Chín 1979 đã để trống ghế của Campuchia trong phong
trào.
Trong
quá trình đấu tranh về vấn đề Campuchia, Liên Xô luôn luôn ủng hộ lập trường của
Việt Nam, Campuchia và Lào.
Nguyễn Đình Bin (2015), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.301-30.
Nhận xét
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết.