Nhà Lê sơ ngăn tệ 'người nhà cùng làm quan' thế nào?


Để hạn chế những mặt tiêu cực của chốn quan trường, các vua nhà Lê Sơ đã có những biện pháp ngăn ngừa có hiểu quả, trong đó "ngăn người nhà cùng làm quan" đã được áp dụng và thi hành. Vậy, nó thể hiện như thế nào?

Nhà Lê sơ ngăn tệ 'người nhà cùng làm quan' thế nào?
Quan có lính theo hầu (Tranh minh họa)
Ở cấp thấp nhất trong cơ cấu hành chính của hàng quan chức thời Lê sơ ăn lộc nước là các xã trưởng (từ năm Bính Tuất (1466) về trước được gọi là xã quan), nhà nước đã thực hiện nhiều quy định, lệnh cấm để ngăn ngừa tình trạng kéo bè, kéo cánh tạo nên sự liên kết quyền lực. 
Ngăn làm quan cùng chỗ
Trước hết là quy định không cho anh em, thân thích cùng làm xã trưởng một xã. Nơi Thiên Nam dư hạ tập, ta được biết, vào năm Mậu Thân (1488), Vua Lê Thánh Tông đã đặt rõ “Lệnh xét đặt xã trưởng”: “Nếu là anh em ruột, anh em con chú con bác con cô con cậu thì chỉ 1 người làm xã trưởng, anh em họ hàng với nhau không được cùng làm để tránh tệ nạn đồng đảng phe cánh”. 
Vậy là người xưa, để ngăn ngừa việc xảy ra tệ phe cánh, mà quy định rõ việc cấm việc những người có quan hệ thân thích với nhau cùng làm quan, thì việc cha con, anh em ruột làm quan cùng nhau một nơi ắt hẳn không có. Xét thế để thấy hiện nay, chồng bổ nhiệm vợ, cha bổ nhiệm con đã là một tệ đáng phải lưu ý rồi. Lệnh trên, Vua Lê không chỉ đặt ra vậy, mà thời gian sau, còn nhắc nhở tiếp.
Theo Toàn thư còn ghi lại, ngày mùng 2 tháng 8 năm Bính Thìn (1496), Vua lệnh cho các châu, huyện về việc chọn xã trưởng: “Nếu là con cô cậu, đôi con dì với nhau và thông gia cùng gả bán cho nhau đều không được cùng làm Xã trưởng một xã”. Lại cũng trong “Lệnh về chọn đặt xã trưởng” năm ấy, Vua còn ghi rõ: “Từ nay các xã trong các phủ huyện châu, chọn đặt xã trưởng hễ là anh em ruột, anh em con chú con bác, anh em con dì con cậu, chỉ cho 1 người làm xã trưởng, ngoài ra không chọn đặt làm xã trưởng trong 1 xã”. Lệnh cũng nêu rõ việc xếp đặt ấy là để chọn được đúng người xứng đáng, mà ngăn được cái tệ phe cánh. Ai làm sai, sẽ nghiêm trị. 
Tiêu chí chọn xã trưởng cũng rất chặt chẽ, xã trưởng phải được bầu chọn từ những người có tuổi hoặc giám sinh, sinh đồ, gốc nhà lương thiện, biết chữ, có hạnh kiểm.
GS. Yu Insun trong nghiên cứu The Structure of Vietnam’s Village in Red River Delta and Its Relation with the State during the Le Dynasty (Cấu trúc của làng xã Việt Nam ở đồng bằng Bắc Bộ và mối quan hệ của nó với nhà nước thời Lê) cho hay: “Xã trưởng phải là một quan lại bậc thấp có tuổi, một cựu giám sinh hoặc một sinh đồ trên 30 tuổi, là người có học hành nhưng không đỗ đạt và là con cái của một gia đình nền nếp”.
Theo Thiên Nam dư hạ tập, nếu xã trưởng nào “gian lận, ăn hối lộ, làm việc không công minh rõ ràng thì quan Hiến ty kiểm tra xem xét rồi tâu lên”. Xã trưởng được bầu chọn rồi, còn phải chịu sự khảo hạch của quan châu huyện, xét thấy xứng đáng thì mới trình lên Lại bộ chuẩn định (Lệ chọn đặt xã trưởng năm Bính Thìn - 1496) từ đó mà sắp xếp công việc. 
Ngăn thân thích dựa thế
Đối với đội ngũ quan lại trấn trị ở các địa phương, trong xã hội Việt Nam của Lương Đức Thiệp cho biết: “Đã có lệ cấm quan lại không được trị nhậm ở hạt nhà cho quyến thuộc khỏi ỷ thế làm càn, cấm quan lại không được lấy vợ tại nơi trị nhậm hoặc tậu ruộng đất, nhà cửa ở nơi trị nhậm để tránh sư hà hiếp dân mà mua rẻ”.
Năm Đinh Tỵ (1497), Đại Việt sử ký toàn thư ghi, Vua Lê Hiến Tông định lệnh “nếu có người nào có quê quán ở ngay bản phủ, huyện mình cai trị, có nhà ở gần nha môn mình làm việc, thì Lại bộ (cơ quan sắp xếp quan lại-Người dẫn chú) điều động đi nơi khác, chọn người khác bổ thay”. Đây là biện pháp ngăn ngừa thân thích của quan viên nhờ vào người nhà làm quan mà cậy thế để ức hiếp, nhũng lạm dân lành. 
Luật pháp, điển chế nhà Lê sơ cũng cấm quan viên không được lấy vợ ở nơi trị nhậm để tránh tình trạng thân thích bên vợ viên quan đó nhờ oai quyền mà làm tội dân. Năm Bính Ngọ (1486) đời Vua Lê Thánh Tông, đã có lệnh được ghi lại trong Thiên Nam dư hạ tập: “Cấm quan nhận chức ở các tỉnh ngoài lấy con gái thuộc bản hạt”. Nếu phạm vào lệnh cấm này, sẽ chịu mức phạt đánh 70 trượng, biếm 3 tư và bãi chức. Trong Quốc triều hình luật, Điều 33 thuộc Chương Hộ hôn đã thể chế hóa rõ ràng lệnh cấm của năm Bính Ngọ (1486): “Các quan ty ở trấn ngoài mà lấy đàn bà con gái ở trong hạt mình thì xử phạt 70 trượng, biếm ba tư và bãi chức”. 
Như trên trình bày, ta thấy rằng, ngay đối với đội ngũ quan viên cấp thấp nhất nơi làng xã là xã trưởng, mà Nhà nước thời Lê sơ đã quy định chặt chẽ là vậy, những mong ngăn được cái tệ bè cánh, thân thích cùng hợp nhau mà làm quan đục khoét dân, câu kết với nhau tạo nên phe cánh, thế lực ngầm nơi làng xã, huống hồ đối với đội ngũ quan viên cấp cao hơn, nhà nước còn quy định chặt chẽ thế nào nữa.
Nhờ những biện pháp chặt chẽ như thế, góp phần để nhà Lê sơ là đời thịnh trị, quả cũng chẳng ngoa chút nào. Người xưa bày đặt luật lệnh như thế và hữu dụng, còn ngày nay, có học được gì chăng ở tiền nhân, để dứt cái tệ thân thích làm quan “đúng quy trình” nhưng có bao nhiêu khuất tất? 
Trần Đình Ba

Nhận xét