Triều Nguyễn được thành lập vào năm 1802 trong bối cảnh đất nước bị
chia cắt sâu sắc. Theo dòng lịch sử, trong thế kỉ XVI- XVIII, đất nước ta bị
chia cắt làm hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài với sự hiện diện của chúa Nguyễn
và chúa Trịnh. Sau đó, khởi nghĩa Tây Sơn đã đánh tan các thế lực phong kiến
cát cứ, xóa bỏ ranh giới sông Gianh, nhưng cũng nhiều nguyên nhân đất nước
không thể thống nhất. Mãi đến năm 1802, đất nước mới thống nhất hoàn toàn dưới
sự cai trị của Gia Long (hậu duệ chúa Nguyễn đánh thắng quân Tây Sơn), vương
triều nhà Nguyễn được thành lập, đất nước thống nhất.
Văn hóa
nước ta trong thời kì loạn lạc này cũng có nhiều biến đổi. Nho giáo tuy vẫn còn
được các thế lực phong kiến sử dụng làm quốc giáo, nhưng vị trí độc tôn như thời
Lê Sơ thì không thể còn. Bởi vì “Dân
nghèo sống dưới sự áp bức bóc lột của thế lực phong kiến suy tàn không biết tìm
cách gì mà thoát khỏi cảnh khổ (ngoài sự khởi nghĩa), đành phải cầu Thần cầu Phật
giảng phúc giải họa”, “trong giai cấp
thống trị, trước nguy cơ của chế độ phong kiến, người ta rất lo sợ nên cũng
trông mong vào sự “cứu hộ cứu nạn” của Phật”[1].
Do đó, Phật giáo trong thời kì này phát triển so với thời Lê Sơ. Tuy nhiên, Phật
giáo thời kì này chỉ cốt cầu cứu khỏi cảnh khổ hiện tại. Theo học giả Đào Duy
Anh nhận xét, “nghề thầy chùa thầy cúng,
phù thủy pháp sư rất phát triển. Trải qua những cuộc cơ cận loạn ly, một số trí
thức thôn quê vào ở chùa để tìm chỗ dung thân yên ổn, trong khi đó, một số đông
dân nghèo vào làm nô tỳ để kiếm ăn”, “Bài
cung oán ngâm thể hiện bọn đại quí tộc Đường ngoài không đặt tin tưởng vào đạo
trị quốc của nhà nho nữa mà quay sang tìm an ủi ở Phật giáo và Đạo giáo. Ở Đường
Trong, bọn quí tộc cũng đua nhau làm chùa rất nhiều. Cơ hồ mỗi nhà đại quí tộc
đều có một hai sở chùa riêng. Tình trạng suy đốn của Phật giáo Đường trong được
bộc lộ rõ ràng trong truyện Sãi sãi”.
1. Những điều kiện để triều Nguyễn
đưa Nho giáo trở thành tư tưởng độc tôn vào đầu thế kỉ XIX
Đến
đầu thế kỉ XIX, Việt Nam đã xuất hiện và tồn tại rất nhiều hệ tư tưởng với những
trường phái khác nhau, trong đó có bốn hệ tư tưởng lớn là Nho giáo, Đạo giáo,
Phật giáo và một hệ tư tưởng mới được truyền vào là Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên,
cũng như các triều đình trước đây, triều Nguyễn vẫn sử dụng Nho giáo làm hệ tư
tưởng chính nhưng vẫn tạo điều kiện cho các tôn giáo khác phát triển. Tại sao
triều Nguyễn lại lựa chọn điều này thì đó là một vấn đề cần làm rõ và với mục
đích xác định rõ hệ tư tưởng nào mới thật sự phù hợp với điều kiện đất nước lúc
bấy giờ.
Ngược
dòng lịch sử, vào thế kỉ XVI – XVIII là thời kì loạn lạc, đất nước bị chia cắt,
nhân dân rơi vào lầm than do chiến tranh diễn ra liên miên. Trong khốn cùng như
vậy, Nho giáo dần mất dần vị trí độc tôn dưới Lê Sơ của mình và sự khôi phục của
Phật giáo và Đạo giáo cũng đã xuất hiện. Một hiện tượng mạnh mẽ đã xuất hiện và
phát triển thêm một bước mới, đó là tam giáo đồng nguyên. Trong dân gian, mà nhất
là tầng lớp trên của xã hội đã quan tâm như: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn,
chúa Nguyễn,… Vì tình hình đất nước rối ren, khủng khoảng chế độ nên người ta
thường hướng về chung một cái gì đó để quên đi sự đời hoặc làm cho xã hội phát
triển. Có thể thấy, cứu vãn địa vị Nho giáo, mà Nho gia đang cố gắng tạo ra những
gì mới mẻ, những gì tiến bộ. Phật và Đạo giáo cũng dần khôi phục địa vị của
mình, nhằm đưa “chúng sanh” thoát khỏi “bể khổ” đương thời “tự tâm tu thân”.
Nhưng trên thực tế, nhà cầm quyền lúc này vẫn luôn đưa Nho học lên cao, đề cao cái
học, cái đạo làm người. Nhưng thời kì này, hai tôn giáo như Phật giáo và Đạo
giáo cũng được khôi phục và được thừa nhận. Đời sống tư tưởng thời kì này rất
phong phú và đa dạng vì tính hỗn hợp là rất cao.
Riêng
đối với cách nhìn của triều Nguyễn, mà khởi đầu là Nguyễn Ánh (Gia Long). “Mặc
dù không tuyên bố Nho giáo là hệ tư tưởng độc tôn nhưng trong suốt cuộc đời trị
vì của mình, Gia Long luôn tuân thủ đường lối chính trị và các phép tắc lễ nghi
của học thuyết Khổng tử, đồng thời từng bước xác lập vị trí độc tôn của Nho
giáo trong đời sống tư tưởng, tôn giáo của dân tộc”[2].
Gia Long chọn Nho giáo làm chính thống như thời Lê Sơ, có thể thấy qua những lí
do sau:
Thứ nhất,
tuy Nho giáo đang trên con đường khủng hoảng mà biểu hiện rõ nhất là sự khủng
hoảng về mặt nhà nước, sự chia cắt trong nước, lòng tin của nhân dân đối với chế
độ bị xuống cấp, nhưng những vương triều, chính quyền cầm quyền trong thời kì
này vẫn đề cao sự học, đề cao đạo làm người, đề cao mặt tích cực của Nho giáo.
Các vương triều và chính quyền này điều sử dụng quan lại qua thi cử, tổ chức bộ
máy quan lại, xây dựng cơ quan hành chính. Ngoài ra, các nhà cầm quyền sử dụng
tư tưởng nhân trị của Nho giáo kết hợp với pháp trị của Pháp gia để quản lí xã
hội, đời sống xã hội dần ổn định.
Thứ hai,
tầng lớp nho sĩ vẫn chiếm số đông trong xã hội và xuất hiện những bậc hiền triết,
tiếp thu và sáng tạo những đạo lí, nhân sinh của Phật giáo và Đạo giáo, bổ sung
và làm cho Nho giáo có được những nội dung mới mẻ và phù hợp với thời cuộc. Những
đạo đức Nho giáo không bao giờ phai mờ. Và việc tiến hành thống nhất văn hóa
trong cả nước, chỉ có thể thông qua con đường giáo dục mà giáo dục là thuộc về
vai trò không tách rời của Nho giáo.
Thứ ba,
mặc dù hai tôn giáo Phật giáo và Đạo giáo đang dần phục hồi nhưng không còn phù
hợp với thời cuộc, không còn khả năng nắm vị trí chính trị được như thời Lý –
Trần xưa. Một phần vì Nho giáo đã ảnh hưởng lâu nay, một phần là tính chất của
hai tôn giáo này không còn phù hợp, chỉ có thể mang đến cho con người một cuộc
sống bình yên, một tinh thần để an ủi cho con người.
Thư tư,
sự xuất hiện, du nhập của Thiên chúa giáo chưa đủ khả năng để làm thay đổi tư
tưởng truyền thống lâu đời. Đồng thời, các vị vua đầu triều Nguyễn đã nhận thấy
sự đe dọa từ các nước phương Tây cùng với tôn giáo của họ nên Nho giáo mới thật
sự đủ sức để chống lại âm mưu của phương Tây.
2. Sự phục hồi Nho giáo và tạo điều
kiện cho Phật giáo, Đạo giáo phát triển.
2.1. Sự phục hồi và độc tôn Nho giáo
Nho
giáo là một học thuyết chính trị- xã hội ảnh hưởng sâu đậm đến chính sách cai
trị của nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Trong khi đó, sau khi
đánh bại triều Tây Sơn, đất nước được thống nhất thì cũng chính là thời kỳ nhà
Nguyễn củng cố quyền lực không chỉ bằng những biện pháp hành chính, mà cả về hệ
tư tưởng mang tính ý thức hệ dựa trên nền tảng của Nho giáo nhằm thiết lập và
duy trì trật tự xã hội. Ngầm với mục đích khẳng định vị thế và uy quyền của
vương triều, vì lợi ích của tầng lớp quý tộc, nhà Nguyễn đã tìm đến Nho giáo
như một công cụ đắc lực cho việc trị nước. Trong bối cảnh đó, Nhà Nguyễn ra sức
chấn hưng Nho Giáo. Trong các đời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, Nho
Giáo Việt Nam giữ vai trò độc tôn trong xã hội, từ chính trị đến giáo dục.
Một
số nội dung chủ yếu của công cuộc phục hồi Nho giáo của nhà Nguyễn. Thứ nhất là tiến hành thanh lọc đội ngũ
Nho sĩ, phải nói ngay từ quá trình phát động và chỉ huy các cuộc chiến tranh chống
Tây Sơn thì Gia Long đã thông qua các khoa thi Nho giáo để tuyển chọn những Nho
sĩ có thực tài, có khả năng giải quyết các vấn đề lớn của xã hội bấy giờ. “Với Nguyễn Ánh, những người trúng tuyển ở
các khoa thi này, tuy không nhiều nhưng lại là những hạt nhân có ý nghĩa chiến
lược lâu dài nhất.”[3]. Thứ hai là tiến hành thống nhất chế độ
giáo dục và thi cử Nho học chính quy trên phạm vi cả nước, đồng thời sửa đổi hệ
thống học vị: vì trước thời Nguyễn, cũng là nền giáo dục Nho giáo nhưng giáo dục
ở Đàng Ngoài và Đàng Trong có sự khác biệt, vì thế yêu cầu thống nhất chế độ
giáo dục là việc tất yếu. Thứ ba là
không ngừng nâng cao hoạt động của hai cơ quan đặc biệt là Quốc Tử Giám và Quốc
Sử Quán. Mặc dù Quốc Tử Giám (Về mặt lịch sử, Quốc Tử Giám được thành lập vào
năm 1076 dưới thời vua Lý Nhân Tông. Thời Nguyễn do kinh đô đặt tại Huế vì thế
cơ quan Quốc Tử Giám cũng được lập ra tại Huế) chỉ dành riêng cho con em tôn thất
đến học, nhưng nó có vai trò kích lệ việc học cũng như quá trình truyền bá và
phục hưng Nho giáo lúc bấy giờ. Và Quốc Sử Quán, cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức
biên soạn cũng như là lưu trữ tài liệu sử sách của nước nhà. Góp phần không nhỏ
vào việc khích lệ các thế hệ Nho sĩ tham gia biên soạn sách.
Song
song với việc tiến hành phục hồi Nho giáo, Nhà Nguyễn đã chủ trương độc tôn Nho
giáo. Chủ trương này được biểu hiện cụ thể qua ý thức và hoạt động thực tiễn của
các vị vua triều Nguyễn điển hình là
Gia Long, Minh Mạng.
Bắt đầu từ vua Gia Long, vốn rất coi trọng
hình luật, vì thế ông đã chỉ thị biên soạn bộ luật của triều Nguyễn
gọi là Hoàng triều luật lệ hay còn gọi là Luật Gia Long. Việc làm luật dựa trên
tinh thần đức trị (một trong những tư tưởng chính trị đề cao của Nho giáo) kết
hợp với pháp trị. Và cũng từ đó thấy
được tinh thần nhân đạo của nó.
Kế
ngôi Gia Long là Minh Mạng một vị vua đã để lại nhiều bài học cho hậu thế. Có
thể nói, xã hội Việt Nam dưới thời vua Minh Mạng được xem là thịnh trị trên nhiều
lĩnh vực. Bởi việc vận dụng tư tưởng chính trị của Nho giáo, trước hết, là sự vận
dụng tư tưởng thiên mệnh, trong Đại Nam thực lục chính biên, có ghi lời vua
Minh Mạng rằng: “Vua phải kính trời, bởi
lẽ trời đối với vua cũng như vua đối với bầy tôi. Vua có điều xấu, trời sẽ
giáng tai họa răn đe để cảnh báo; nếu vua biết hối cải sửa mình thì ban cho điều
tốt. Bầy tôi có lỗi, vua phải giáng phạt để trừng trị; nếu bầy tôi biết hổ thẹn,
cố gắng khắc phục lỗi thì liệu đó mà cất nhắc lên. Việc có khác, lẽ cũng chỉ là
một”, tức người làm vua phải luôn tâm niệm sửa mình, làm những điều tốt đẹp
cho dân. Bên cạnh sự vận dụng tư tưởng thiên mệnh, vua Minh Mạng còn vận dụng
tư tưởng đức trị với ba quan điểm. Thứ nhất là ái dân, cứu giúp người dân khi
hoạn nạn, đặc biệt là lo cho cái ăn, cái mặc của họ, giảm thuế khóa, trợ cấp
cho những đối tượng đặc biệt, bảo vệ cuộc sống bình yên của người dân trước sự
nhũng nhiễu của trộm cướp hay giới quan lại lạm quyền: “Nhân tình ai không muốn yên, há lại vui thích làm trộm cướp hay sao?
Nhân tình trạng bị áp bức, không nơi kêu ca tố giác, cho nên tụ tập làm trộm cướp.
Trẫm xem bản án của bộ Hình tâu lên, thấy có việc dân báo cáo trộm cướp mà viên
chức giữ việc bắt bớ cho là hoang báo, thậm chí còn yêu sách của đút, sự tệ hại
không thể nói xiết được. Dân mà không yên ổn làm ăn đến nỗi làm trộm cướp là lỗi
tại viên chức vậy”[4],
bên cạnh đó, thực hiện
sai khiến dân đúng thời điểm và thực hiện chính sách tiết kiệm trên cả nước. Thứ hai là quan niệm về quan hệ vua -
quan – dân tức là mối quan hệ
vua gần với quan và quan gần với dân để tạo nên mối quan hệ tốt đẹp.
Thứ ba là quan niệm về đề cao vai
trò của giáo dục và cầu người hiền tài tức việc
xây dựng đất nước cần phải có những người tài giỏi giúp sức mới thành công được.
Muốn có những người tài giỏi thì cần mở rộng và cải cách giáo dục để đào tạo
nhân tài, thông
qua hệ thống khoa cử và khuyến khích tiến cử người tài trong xã hội. “Kẻ
hiền tài là đồ dùng của quốc gia, khi chưa gặp thời, náu mình giấu tông tích,
thì vua chúa làm sao mà biết được, cho nên ngoài việc khoa cử ra, còn cần có
người đề cử,
trẫm từ khi mới lên ngôi, gắng sức mưu đồ cho nước thịnh trị, rất muốn trong
triều có nhiều kẻ sĩ đức hạnh tốt, mà không bỏ sót người hiền tài nào ở chốn
thôn dã, để tô điểm sự nghiệp nhà vua dùng tiếng âm nhạc mà hóa dân trị nước”[5]. Chính bởi vì sự độc tôn Nho giáo mà vua Minh Mạng,có
thái độ dứt khoát với Thiên Chúa giáo.
Như vậy, có thể nói, xuất phát từ thực tiễn đất nước Nho giáo từng được độc tôn dưới triều Lê Sơ
và cho đến khi nhà Nguyễn nắm quyền thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, Nho
giáo vẫn luôn luôn chiếm ưu thế hàng đầu trong đời sống văn hoá tinh thần của
xã hội. Sự độc tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn là tất yếu lịch sử.
2.2. Những điều kiện do triều Nguyễn tạo ra cho Phật giáo và
Đạo giáo
![]() |
Chùa Diệu Đế nằm bên bờ sông Đông Ba thuộc phường Phú Cát (thành phố Huế), là một trong ba ngôi Quốc tự dưới triều Nguyễn còn lại trên mảnh đất cố đô. |
Bên
cạnh việc độc tôn Nho giáo thì triều Nguyễn khác với triều Lê Sơ trước đây, đã
tạo điều kiện cho Phật giáo và Đạo giáo phát triển. Trước hết là cuộc chấn hưng
Phật giáo đã được tiến hành ngay từ buổi đầu của thời Gia Long nói riêng và các
Hoàng đế đầu triều Nguyễn nói chung đã quy định về những điều kiện để được phép
xuất gia và tu hành[6]. Cụ
thể là chính sách Phật giáo thời Minh Mạng. Vua Minh Mạng quan điểm “Nhà Phật dùng thần đạo để dạy đời, đạo Khổng
Tử chỉ dạy luân thường là món dùng hằng ngày, song tóm lại, chung quy đều dạy
người ta làm điều thiện mà thôi”, “Đối với đạo Phật, dạy người bằng thuyết họa
phúc, báo ứng, ta không nên nhất khái cho là dị đoan”[7]. Chính bởi cách nhìn tích cực đó, mà
trong thời gian trị vì vua Minh Mạng đã có nhiều chính sách quan tâm phát triển
cơ sở thờ tự, quản lý chặt chẽ tăng sĩ, thực hiện chế độ bao cấp đối với các
chùa công.
Thứ nhất, triều đình quan tâm đến
phát triển cơ sở thờ tự. Triều Nguyễn đã cho xây dựng nhiều
cơ sở chùa chiềng mới, đồng thời cho tu bổ, trùng tu những ngôi chùa cũ, vì
theo Minh Mạng “những danh lam thắng tích
ta không có quyền để chúng tàn rụi, mất hết dấu tích không lưu lại cho thế hệ
mai sau”. Triều đình đã cho trùng tu chùa Thiên Tôn (Quảng Trị), Tam Thai
(Quảng Nam), các chùa trên núi Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng), dựng chùa Long Phước (Quảng
Trị), chùa Thánh Duyên (Huế), chùa Giác Hoàng (Huế), chùa Vĩnh An (Quảng Nam),
chùa Khải Tường (Gia Định,… Có chùa lại được vua Minh Mạng cho xây dựng từ sự cảm
kích đối với một vị thiền sư chân tu. Trường hợp chùa Sắc tứ Bát Nhã ở Phú Yên
là một ví dụ. Đến Thiệu Trị cũng đã thực hiện trùng tu các chùa như: Thiên Mụ,
Hoàng Ân, Long Quang, Diệu Đế, bốn ngôi chùa này đều ở Huế,… Bên cạnh đó, sự xuất
hiện của nhiều văn bia ở chùa cũng đã chứng minh được là ngoài sự tích cực của
triều đình thì việc tu sửa và dựng mới chùa ở các vùng quê cũng phát triển. Do
đó, chùa chiền dưới thời Minh Mạng, nhờ đó mà đã phát triển nhanh chóng, nhiều
ngôi cổ tự có giá trị về mặt văn hóa lịch sử được trùng tu, bảo tồn, tránh được
nguy cơ mai một do những tác động không mong muốn từ thời tiết và con người. Và
có thể nói rằng: “ phần lớn các ngôi chùa
đều được xây dựng dưới thời nhà Nguyễn và những ngôi chùa nào được xây dựng trước
đó, thì nhờ được trùng tu dưới thời Nguyễn mà tồn tại cho tới đến nay”[8].
Quốc
tự là nơi truyền bá Phật giáo mang tính quốc gia, là những ngôi chùa do triều
đình trực tiếp xây dựng, tái thiết và quản lí sử dụng. Vì vậy mà những ngôi
chùa này có nhiều quan tâm và hậu đãi. Theo đó các Tăng sĩ ở Quốc tự được miễn
thuế khóa, sưu dịch, được cấp lương bổng hằng tháng để chi dùng, cấp pháp phục,
gạo muối,... Theo từng cấp bậc tăng sĩ mà chế độ phân chia nhiều ít khác nhau.
Hành động trên cũng chính là sự thừa nhận và ủng hộ Phật giáo phát triển trong
đời sống tín ngưỡng của dân tộc. Đặc biệt, phần lớn Quốc tự ở ngay tại Kinh đô
Huế - điển hình là chùa Thiên Mụ nơi có số đông dân chúng mến mộ Phật giáo. Từ
đó, triều đình có thể thu phục được lòng dân, tạo được lòng tin và sự ủng hộ của
nhân dân, góp phần ổn định đất nước.
Thứ hai, triều đình coi trọng nghi lễ
Phật giáo. Ngoài việc chu cấp kinh phí cho việc trùng tu hoặc
tôn tạo chùa chiền thì các Hoàng đế triều Nguyễn còn cấp kinh phí phục vụ cho
các đại lễ trai đàn, sai quân lính tới để giúp mọi việc. Điển hình, “một số triều đình nhà Nguyễn, khi lên ngôi,
ngoài việc tổ chức đại lễ đăng quang trong hoàng thành, còn tổ chức đại lễ trai
đàn”[9].
Và trong các Lễ trai đàn, triều đình thường cho bắn “62 phát súng lệnh”, việc bắn súng lệnh trong Lễ trai đàn đã một lần
nữa khẳng định vị trí quan trọng của nghi lễ này trong hoạt động lễ tiết của
triều đình.
Thứ ba, triều đình xiết chặt mặt quản
lí,
có thể thấy rằng thái độ của triều Nguyễn đối với Phật giáo là rất cởi mở.
Nhưng không phải chính vì sự cởi mở mà không chú trọng về mặt quản lý. Triều
Nguyễn đã luôn thể hiện quyền lực thực sự của mình với bất cứ ai muốn lợi dụng
thái độ cởi mở đối với Phật giáo để mưu lợi riêng. Chính vì thế dưới thời Minh
Mạng hạn chế việc các tăng sĩ tham gia vào việc triều chính. Triều đình cũng có
những quy định nghiêm khắc và cứng rắn đối với các trường hợp hoạt động mê tín
trong Phật giáo.
Đối
với Việt Nam, Phật giáo không chỉ đơn thuần là một tôn giáo mà nó còn là thành
tố quan trọng trong văn hóa truyền thống của người Việt từ trong công cuộc bảo
vệ và xây dựng đất nước. Và việc phát triển Phật giáo là một biện pháp tốt cho
việc xây dựng và củng cố vương quyền. Bên cạnh chính sách độc tôn Nho giáo thì
vua Minh Mạng đã thể hiện tính kế thừa và sáng tạo trong chính sách đối với Phật
giáo xem Phật như một tư tưởng bổ sung cho Nho giáo.
Còn
với Đạo giáo, triều đình cũng quy định về điều kiện được phép tu hành như: “Về độ tuổi, ngoại trừ những trường hợp đặc
biệt được các bậc chn tu xác nhận xác nhận, còn nói chung thì người muốn xuất
gia tu hành (nhất là nam), phải từ năm mươi tuổi trở lên; Về ý nguyện, phải thực
sự xuất phát từ lòng mộ đạo; Về tư cách, phải đảm bảo là người có thể giữ được đạo
hạnh lâu bền trong suốt cả đời tu hành; Về hiểu biết, phải được trang bị các
tri thức nhất định về giáo lí”[10].
Từ đó, chúng ta thấy rằng đội ngũ tu hành được thanh lọc, những kẻ lợi dụng đền
miếu và Đạo quán để lẫn trốn sự truy đuổi của xã hội hoặc chối bỏ trách nhiệm
và bổn phận của mình đều lần lượt bị buộc phải hoàn tục.Vị trí của các bậc chân
tu dần dần được khẳng định và đề cao. Và cũng từ đây không gian và không khí
tôn nghiêm của hầu hết các đền miếu và Đạo quán trên khắp cả nước cũng dần dần
được khôi phục, nhiều giá trị triết lí của Đạo giáo lại tiếp tục có cơ hội để
có thể thẩm thấu đến nhận thức của các tầng lớp xã hội, hàng loạt đền miếu và Đạo
quán ở nhiều địa phương khác nhau đã được triều đình cho trùng tu, tồn tạo hoạc
xây dựng thêm, có khi chu cấp toàn bộ hoặc một phần kinh phí để tiến hành.
Trong
xã hội, có hai xu hướng tiếp cận các triết lí: giản dị hóa và thiết thực hóa
các khái niệm hàm súc và uyên thâm. “Trong
tình cảm cũng như nhận thức của xã hội, ngoài thế giới hiện hữu của con người
còn có một thế giới siêu nhiên, đấy là ma quỷ và thánh thần. Với thế giới siêu
nhiên đó, chỉ các Thầy cúng, các Pháp sư mà đặc biệt là những Đạo sĩ cao tay ấn
mới có khả năng và có quyền được giao tiếp, thậm chỉ là còn có thể tham gia điều
khiển. Chỉ họ mới có thể hô phong và hoán vũ, triệu thiên tướng và thúc thiên
binh, trừ tà và yếm quỷ, diệt âm khí và khơi mạch đại cát cho thiên hạ”. Điều
đáng nói ở đây, đức tín hiện hữu hiện mạnh mẽ. Xu hướng tuyệt đối hóa đức tin
đã tạo cơ hội thuận lợi cho hiện tượng mê tín dị đoan phát triển mạnh mẽ. Triều
đình còn phong sắc thần như Hạ Đẳng, Trung Đẳng, Thượng Đẳng với các kiêm hiệu.
Những
đền miếu và Đạo quán tiêu biểu do triều đình trùng tu, tồn tạo hoặc xây dựng
như: Đền Bạch Hổ (đền anh Cọp hay đền Ca Hổ) ở Quảng Ngãi, thờ thần là con Cợp
trắng, tương truyền rất nhân từ với dân làng. Đền Thượng ở Ninh Bình, thờ Đinh
Tiên Hoàng. Miếu Hỏa Thần ở Hà Nội, thờ Thần lửa,…
Dương Thị Giàu, Trần Hoàng, Võ Thị Thúy Quyên
[1],
2 Đào Duy Anh. (2013). Lịch sử Việt
Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX. Hà Nội: NXB. Khoa học xã hội, tr.449
[2]
PGS.TS. Lê Thị Lan. (2015), Tư tưởng trị
quốc của Gia Long. Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 12 (97)-2015,
tr.37.
[3]
Nguyễn Khắc Thuần. (2007). Tiến trình Văn hóa Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỉ
XIX. Hà Nội: NXB. GIáo dục, tr.871.
[4]
Lê Cảnh Vững. (2012). Tư tưởng đề cao Nho giáo của vua Minh Mệnh trong trong
Minh Mệnh chính yếu. Huế: Tạp chí khoa học, tập 72A, số 3, tr.273.
[5]
Lê Cảnh Vững. (2012), tlđd, tr.279.
[6]
Nguyễn Khắc Thuần. (2007), sđd,
tr.944.
[8]
Nguyễn Khắc Thuần. (2007), sđd,
tr.947.
[9]
Nguyễn Khắc Thuần. (2007), sđd,
tr.945.
[10],
Nguyễn Khắc Thuần. (2007), sđd,
tr.991.
Nhận xét
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết.