Từ xưa tới nay, Việt Nam
luôn có một vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á nên luôn là
một nơi bị sự nhòm ngó của ngoại bang. Điều này khiến cho các triều đại Phong
Kiến Việt Nam phải có một chính sách ngoại giao vừa cứng rắn vừa mềm dẻo.
Trong bài viết Đấu tranh quốc phong của các triều đại Phong kiến Việt Nam của TS Nguyễn Văn Quang và TS Nguyễn Văn Dũng trên trang web Biên Phòng Việt Nam đã đưa ra một số nhận xét tổng quát về chính sách đối ngoại của các triều đại Phong kiến Việt Nam.
Một là, giữ
vững quan điểm độc lập tự chủ, lánh xa cuộc chiến “tranh bá đồ vương” của ngoại
bang . Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu chuộng hoà bình, muốn làm
bạn với tất cả các nước, nhất là với các nước láng giềng. Bởi vậy, các triều
đại phong kiến Việt Nam luôn nhất quán tư tưởng chỉ đạo là ưu tiên tạo dựng và
giữ vững môi trường hoà bình, ổn định đất nước, nhất là ở khu vực biên giới, để
nhân dân có điều kiện tập trung mọi nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, coi
đây là kế sách để xây dựng đất nước.
Khi đất nước còn ở thuở
sơ khai, thế nước còn yếu, nhưng với tinh thần độc lập tự chủ cao, Vua Hùng đã
khéo léo khước từ trước những lời lẽ dụ dỗ hết sức thâm độc của kẻ thù, tránh
được một cuộc “tranh bá đồ vương” thời Xuân Thu (năm 722 - 479 TCN). Đó là vào năm 505 -
465TCN, sau khi chiếm được nước Ngô, Việt Vương Câu Tiễn đã sai sứ xuống dụ vua
Hùng thuần phục nhưng bị vua Hùng cự tuyệt. Sau này, đế quốc Nguyên Mông tuy là đội quân
rất mạnh (đã chiếm một nửa châu Âu và phần lớn Trung Quốc), nhưng để tranh ngôi
Đại Hán, một mặt chúng thực hiện kế sách hoà hoãn tạm thời bang giao, lôi kéo
nước Đại Việt tham gia vào cuộc chiến nhằm tập trung lực lượng đánh chiếm Nam
Tống; mặt khác, chúng vẫn do thám tình hình, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm
lược nước ta khi có thời cơ. Nắm được ý đồ của địch, triều đình nhà Trần đã
kiên quyết, khôn khéo khước từ những yêu sách vô lý và láo xược của chúng. Cùng
với đó, vua tôi nhà Trần còn bí mật động viên toàn dân chuẩn bị tiềm lực quốc
phòng sẵn sàng chống quân xâm lược.
Vì thế, các triều đại
phong kiến Việt Nam không những đã giữ vững độc lập, tự chủ, không bị lôi kéo
vào cuộc chiến tranh do chúng phát động, mà còn nêu cao tinh thần đoàn kết,giúp
đỡ nhân dân các nước láng giềng chống kẻ thù chung. Đó là những hoạt động quan
trọng, xuyên suốt trong tư tưởng đấu tranh quốc phòng của các triều đại phong
kiến Việt Nam.
Hai là, đấu
tranh loại trừ hoạt động quấy nhiễu nơi biên ải, ngăn chặn do thám quân sự; phô
trương sức mạnh phòng bị. Ngoài nhiệm vụ canh phòng ở khu vực biên
giới, các triều đại phong kiến Việt Nam còn trực tiếp chỉ đạo các tù trưởng,
tộc trưởng, nhất là nhân dân vùng biên chủ động nắm tình hình, tích cực giao
lưu với nhân dân nước láng giềng, tạo mối quan hệ thân thiết. Đồng thời, kiên
quyết đấu tranh với ngoại bang triệt phá các băng đảng, tổ chức phản loạn,
chống lại triều đình, phá hoại cuộc sống yên bình nơi biên giới.
Bằng sự kiên trì và thái độ kiên quyết đấu
tranh, Lê Hoàn đã đập tan mưu đồ sử dụng bè đảng Văn Dũng, tụ tập, cướp phá,
quấy rối ở vùng biên của nhà Tống, buộc nhà Tống phải nhượng bộ; không dám dung
túng bọn đào vong Hoàng Khánh Tập khi chúng bỏ trốn sang Hoan Châu (năm 1003)…
Nhà nước phong kiến Việt Nam còn ban hành nhiều quy định buộc người nước ngoài
khi vào nước Đại Việt phải tuân theo, làm cơ sở để đấu tranh ngăn chặn các hoạt
động tình báo, gián điệp, bảo trợ cho các phần tử xấu chống phá; chủ động tuyển
binh, luyện binh, duyệt binh, hành binh, phô diễn chiến cụ, phô trương sức mạnh
phòng bị của đất nước trước sứ thần nước ngoài, đồng thời răn dạy bề tôi, quân,
dân không gây hiềm khích, mắc mưu gây chiến của địch, giữ vững hòa bình. Có thể
nói, đây là nội dung, tư tưởng và những hành động đấu tranh quốc phòng nổi bật
ở thời tiền Lê, góp phần ngăn đe và triệt tiêu ý đồ xâm lược của ngoại bang.
Ba là, chủ
động đấu tranh với kẻ thù bằng hai hình thức: gián tiếp và trực tiếp để bảo vệ
giang sơn xã tắc. Việt Nam là một nước nhỏ, dân số ít, luôn bị phong
kiến phương Bắc đè nén, xâm lấn và bắt cống nạp như một nước “chư hầu”. Để bảo
vệ đất nước trong bối cảnh đó, nhà nước phong kiến Việt Nam rất coi trọng giáo
dục lịch sử truyền thống, lòng yêu nước, lòng tự trọng dân
tộc cho dân chúng; bồi dưỡng nâng cao kiến thức về văn hoá, địa lý, quân sự,
quốc phòng, ngoại giao… cho quan chức triều đình, giúp họ có đủ khả năng để đấu
tranh với địch trên tất cả các lĩnh vực. Đồng thời, vừa giữ vững nguyên tắc đấu
tranh kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, vừa linh hoạt, uyển chuyển
giải quyết dứt điểm từng vấn đề, không để phát sinh, phức tạp thêm tình hình mà
vẫn giữ vững nguyên tắc, thánh chỉ của triều đình: “Một thước núi,
một tấc sông của ta không nên vứt bỏ, ngươi kiên quyết tranh biện, chớ cho họ
lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều
ngay lẽ gian”...
Bởi vậy, mỗi khi phong
kiến phương Bắc lấn chiếm, cướp bóc hay chuẩn bị chiến tranh xâm lược, nhân dân
ta ở các khu vực biên giới đã khôn khéo cất giấu tài sản, lương thực, phòng
giữ, không gây chiến mắc mưu địch, còn triều đình thì gửi thư hỏi rõ nguyên do
sự việc. Khi nguy cơ cuộc chiến đến gần, triều đình lại cử các cận thần tài
giỏi đến trước “quân doanh”, thậm chí sang hẳn nước địch để trực tiếp đấu lý,
tranh biện với chúng. Bằng những lời lẽ đối đáp cứng rắn, sắc sảo, Trần Khắc
Trung đã làm giảm ý chí và tinh thần chiến đấu của quân xâm lược.
Bốn là, thi
hành chính sách “nội đế ngoại vương”, “bang giao trên thế mạnh”, “bang giao phòng
ngừa”. Mặc dù phải chấp nhận sắc phong là vương nước Nam từ thời An
Dương Vương, nhưng kể từ thời nhà Lý đến thời nhà Nguyễn, các hoàng đế nước ta
đều nhất quán, kiên trì thực hiện chính sách “nội đế ngoại vương” để giữ “trong
ấm ngoài êm”; đồng thời, vận dụng linh hoạt, sáng tạo hai phương sách “bang
giao trên thế mạnh”, “bang giao phòng ngừa”, tạo điều kiện thuận lợi xây dựng
tiềm lực quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
Trong quan hệ bang giao
với nước ngoài, các triều đại phong kiến Việt Nam đã khéo léo dựa vào vận thế
đất nước để có đối sách phù hợp. Khi thế nước đang lên, quốc phòng đang mạnh,
lòng dân đang thuận, thì đấu tranh tỏ rõ khí phách “Nam quốc sơn hà Nam đế
cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng
hành khan thủ bại hư”. Khi đất nước đang trong thế yếu, thì các triều đại phong
kiến Việt Nam lại khai thác thế mạnh của mình, đánh vào chỗ yếu - lòng
tham của quan quân, vua chúa nước ngoài: trao trả dân tình xâm nhập qua biên
giới, tù binh, chiến cụ bắt được sau các cuộc chiến, thậm chí còn dâng tặng báu
vật…đòi lại đất đai, cương vực của Tổ tiên, góp phần giữ nguyên bờ cõi, xây
dựng nền thái bình.
Có thể thấy, trong suốt
chiều dài lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc ta, bằng các chính sách phù hợp,
các triều đại phong kiến Việt Nam đã vừa chủ động phòng ngừa, tiêu diệt được
thù trong, vừa sẵn sàng đánh bại giặc ngoài, ngăn chặn các ý đồ xâm lược, buộc
đối phương phải điều chỉnh đường lối, chính sách quân sự, quốc phòng phù hợp,
tôn trọng, hợp tác với ta. Qua đó, chúng ta kịp thời ngăn chặn những hành động
phá hoại, giữ yên bờ cõi, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Như vậy, hoạt
động đấu tranh quốc phòng của nhà nước phong kiến Việt Nam đã tồn tại từ rất
sớm trong lịch sử dân tộc, được tiến hành bằng nhiều biện pháp, hình thức phong
phú, linh hoạt, khéo léo, đạt hiệu quả cao.
-----
#tm
#tm
Nhận xét
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết.