Quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp 1946 và sự kế thừa, phát triển trong lịch sử lập hiến Việt Nam
GS. TS. Trần Ngọc Đường
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
1. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 1946
Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam, là Hiến pháp của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và cũng là bản Hiến pháp dân chủ và tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam Á. Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức tạp, quan hệ đến sự mất còn của chính quyền nhân dân non trẻ, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng một lúc đe doạ nền độc lập dân tộc mới giành được, Hiến pháp 1946 thực sự là công cụ đặc biệt quan trọng và có hiệu lực nhất để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng và thực hiện quyền lực nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các quyền tự do dân chủ của con người được đạo luật cơ bản ghi nhận và bảo đảm, cũng là lần đầu tiên người dân lao động Việt Nam được xác nhận có tư cách công dân của một nước độc lập có chủ quyền. Nội dung của quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của công dân nhằm mục tiêu bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Ba nguyên tắc xây dựng Hiến pháp 1946 là đoàn kết toàn dân, đảm bảo các quyền tự do dân chủ và thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Trong số bảy chương thì chương về “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân” được xếp thứ hai, gồm 18 điều. Trong đó có 16 điều trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Hiến pháp đặt nghĩa vụ trước quyền lợi, trong đó có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (Điều 4) và nghĩa vụ đi lính (Điều 5) là hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ quan trọng và cấp bách lúc bấy giờ là bảo vệ nền độc lập dân tộc và chính quyền cách mạng của nhân dân. Ngoài ra, công dân còn có nghĩa vụ tôn trọng Hiến pháp và tuân theo pháp luật (Điều 4). Các điều còn lại của Chương II quy định các quyền tự do dân chủ của công dân trong các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội và tự do cá nhân. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được ghi nhận trong đạo luật của Nhà nước (Điều 7). Và cũng lần đầu tiên ở nước ta, Hiến pháp quy định phụ nữ được ngang quyền với nam giới về mọi phương diện. Nội dung tiến bộ, dân chủ và nhân đạo của Hiến pháp 1946 còn được thể hiện ở những quy định về các quyền cơ bản của công dân như quyền tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc (Điều 7), quyền bầu cử và ứng cử (Điều 18), quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra (Điều 20), quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều 21), quyền tư hữu tài sản (Điều 12), quyền học tập (Điều 15), quyền tự do ngôn luận, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài (Điều 10), quyền bất khả xâm phạm về nhà ở và thư tín (Điều 11), quyền được Nhà nước ưu tiên chăm sóc giúp đỡ của công dân thuộc dân tộc thiểu số (Điều 8), của công dân già cả, tàn tật, trẻ em (Điều 14), của giới cần lao trí thức và chân tay (Điều 13).
Quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ có thể được thực hiện khi có một bộ máy nhà nước vững mạnh, thật sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do đó, Hiến pháp 1946 dành các chương còn lại quy định cơ cấu bộ máy nhà nước nhằm xác định trách nhiệm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công dân.
Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Nghị viện nhân dân, do “công dân Việt Nam bầu ra ba năm một lần” (Điều 24), có nhiệm vụ “giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài “(Điều 23). Nghị viện không chỉ “thay mặt cho địa phương mình mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân” (Điều 25). Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân trực tiếp bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 58), có nhiệm vụ chỉ đạo Uỷ ban hành chính quản lý mọi mặt ở địa phương. Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể bị bãi miễn nếu không còn tín nhiệm đối với cử tri (Điều 61).
Các cơ quan hành chính nhà nước gồm Chính phủ và Uỷ ban hành chính các cấp, có nhiệm vụ trực tiếp quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội trên cơ sở các đạo luật, Nghị quyết của Nghị viện và của Hội đồng nhân dân (đối với Uỷ ban hành chính ở địa phương).
Cơ quan tư pháp là Toà án nhân dân, có chức năng bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân. Hiến pháp 1946 cũng quy định những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư pháp như: công khai (Điều 65), có Hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 65), Bị cáo có quyền bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa (Điều 67), chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử (Điều 69)... thực hành quyền tố cáo trước toà án.
Việc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó trong Hiến pháp 1946 có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn. Lần đầu tiên, danh hiệu công dân cao quý của một nhà nước độc lập ra đời và được ghi nhận trang trọng trong Hiến pháp. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu cơ quan soạn thảo Hiến pháp 1946 đã nói: “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”[1]. Với địa vị pháp lý cao quý của con người từ nô lệ trở thành người chủ đã có tác dụng động viên, cổ vũ nhân dân vượt qua mọi thác ghềnh đưa cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp giành thắng lợi oanh liệt.
2. Quyền con người, quyền công dân thể hiện nhất quán ngày càng hoàn thiện và phát triển trong bốn bản Hiến pháp của Việt Nam
Hiến pháp với tư cách là đạo luật cơ bản của nhà nước, xét về lịch sử ra đời, là sản phẩm của cách mạng tư sản lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế. Nó là văn bản chính trị pháp lý chấm dứt chế độ xã hội thần dân chuyển sang chế độ công dân. Hiến pháp ra đời do áp lực nhu cầu tự do dân chủ, nội dung của nó không thể không ghi nhận và đảm bảo về mặt pháp lý các quyền con người, quyền công dân. Ở Việt Nam, trước Cách mạng tháng Tám 1945 vốn không có truyền thống lập hiến. Tư tưởng về một nền lập hiến vì con người được thể hiện bắt đầu từ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1926, Người đã khẳng định rằng, nếu được độc lập, Việt Nam sẽ xếp đặt một Hiến pháp về phương diện chính trị và xã hội theo lý tưởng dân quyền, một nền pháp luật chú trọng bảo hộ quyền lợi của thợ thuyền.
Nhất quán với tư tưởng đó, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, ngày 3 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị một trong sáu nhiệm vụ cấp bách là xây dựng Hiến pháp. Người chỉ ra rằng: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có một Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”[2]. Ngày 20-9-1945, bản dự thảo Hiến pháp do Người làm trưởng ban đã được thành lập. Ngày 9-11-1946 Quốc hội khoá I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thông qua Hiến pháp 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
Như vậy, xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho nền lập hiến Việt Nam nói chung và cho việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng Hiến pháp nói riêng.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời của Hiến pháp 1946, địa vị pháp lý của người dân nước ta đã có sự thay đổi căn bản. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Về mặt chính trị cũng như pháp lý, người Việt Nam lúc đó không được gọi là công dân. Xét về phương diện lịch sử, nếu quyền con người, quyền công dân ở các nước tư bản ra đời gắn liền với cuộc cách mạng tư sản xoá bỏ chế độ thần dân phong kiến, thì ở nước ta quyền làm người, quyền công dân gắn liền với cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc, xoá bỏ chế độ thực dân lẫn xã hội thần dân. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, Hiến pháp đã trang trọng ghi nhận quyền con người, quyền công dân- một trong những nội dung cơ bản nhất của Hiến pháp. Như vậy là ở Việt Nam, địa vị pháp lý của công dân được xác lập gắn liền với việc dân tộc giành được độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thấm nhuần tư tưởng nhân quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kể từ Hiến pháp đầu tiên 1946 cho đến Hiến pháp 1992 hiện hành đều thể hiện xuyên suốt việc đề cao các quyền con người, quyền công dân. Bốn bản hiến pháp là bốn nấc thang về việc ghi nhận và phát triển các quyền cũng như cơ chế bảo vệ các quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. Có thể khái quát quyền con người, quyền công dân trong lịch sử lập hiến Việt Nam có đặc điểm cơ bản sau đây:
- Một là, quyền công dân gắn liền với quyền con người, với việc xác lập chủ quyền dân tộc, chủ quyền quốc gia là khởi điểm để nhân dân Việt Nam trở thành người chủ của đất nước và mưu cầu hạnh phúc. Do đó, có thể nói rằng, quyền con người và quyền công dân ở Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hiến pháp 1946.
- Hai là, quyền con người, quyền công dân thể hiện một cách nhất quán trong cả bốn bản Hiến pháp là ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Hiến pháp sau so với Hiến pháp trước đều có sự phát triển các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Từ Hiến pháp đầu tiên 1946 đến Hiến pháp 1992, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính quyền của ai, phục vụ ai xuyên suốt toàn bộ nội dung. Cả bốn bản hiến pháp đều khẳng định nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xác định bản chất Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức.
- Ba là, các quyền con người và quyền công dân thể hiện trong các bản hiến pháp của Việt Nam rất rộng rãi và có tính tiên tiến. Điều đó thể hiện ở chỗ, ngay từ Hiến pháp 1946, các quyền tự do, bình đẳng, dân chủ được trang trọng ghi nhận cùng với cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền đó. Đất nước ngày càng được củng cố và phát triển, các quyền con người và quyền công dân cũng ngày càng được mở rộng và phát triển cả về số lượng và chất lượng; thể hiện nấc thang cao hơn về thể chế và cơ chế đảm bảo thực hiện. Khác với bản chất chính trị - giai cấp trong xã hội tư bản, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, các quy định pháp lý về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước không nhằm hạn chế các quyền tự do mà nhằm phát triển hoàn thiện hơn các quyền tự do của con người. Điều đó thể hiện tính chất tiên tiến của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam. Bình đẳng về chính trị là nội dung cốt lõi xuyên suốt các bản hiến pháp. Trong đó, đặc biệt coi trọng quyền bình đẳng trong bầu cử, ứng cử, tham gia xây dựng chính quyền các cấp giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc đa số. Điều đó thể hiện đậm nét trong các cuộc bầu cử Quốc hội từ khoá I đến khoá XI hiện nay.
Quyền bình đẳng giữa nam giới và nữ giới cũng thể hiện rõ trong số lượng đại biểu nữ tham gia Quốc hội ngày càng tăng lên về số lượng và chất lượng. (Ví dụ, số đại biểu nữ trong Quốc hội khoá I chiếm 2,5%; khoá II: 13,5%; khoá VIII: 18%; khoá IX: 18,84% và khoá X: 26,22% và khoá XI hiện nay là: 27,31%)
- Bốn là, các quyền con người, quyền công dân ngày càng được mở rộng và hoàn thiện hơn trong các bản hiến pháp của Việt Nam. So với các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, quyền con người, quyền công dân có sự mở rộng và hoàn thiện hơn trong Hiến pháp 1992. Điều đó thể hiện sự phát triển liên tục cả về phương diện chính trị - pháp lý cũng như phương diện kỹ thuật lập hiến. Về nội dung chính trị - pháp lý, các quyền và nghĩa vụ pháp lý được Hiến pháp 1992 quy định đầy đủ, hợp lý và có tính khả thi hơn. Nội dung các quyền không chỉ phản ánh những thay đổi của đời sống đất nước mà còn thể hiện sự tiếp thu những giá trị văn minh của nhân loại về nhân quyền, dân quyền.
Về hình thức thể hiện, các quyền và nghĩa vụ ghi nhận trong Hiến pháp 1992 với kỹ thuật lập pháp chuẩn xác hơn. Lần đầu tiên thừa nhận thuật ngữ “quyền con người” trong Hiến pháp (ba bản hiến pháp trước đồng nhất quyền con người với quyền công dân). Ngôn ngữ thể hiện chặt chẽ, phản ánh đúng hiện thực khách quan, bỏ đi một số câu chữ mang tính nhân văn nhưng không phù hợp với thực tiễn.
Về số lượng các quyền và nghĩa vụ ghi nhận trong chương về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng có bước phát triển chẳng những so với ba bản hiến pháp trước mà còn so với hiến pháp của các nước trên thế giơi. Nếu Hiến pháp 1946 có 28 điều về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp 1959 có 21 điều, Hiến pháp 1980 có 28 điều thì Hiến pháp 1992 có 34 điều trên tổng số 147 điều của toàn bộ Hiến pháp. So riêng với Hiến pháp 1980 thì Hiến pháp 1992 chỉ giữ lại bốn điều không sửa chữa, 26 điều phải sửa đổi, bổ sung và thêm bốn điều mới với sự sắp xếp hợp lý hơn. Dung lượng và những thay đổi về hình thức đó thể hiện kỹ thuật lập hiến ngày một nâng cao theo nguyên tắc luật pháp phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và có tính khả thi.
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.440.
[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.8.
http://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=258
http://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=258
Nhận xét
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết.