5. Lý Thần Tông tên thật là Lý Dương Hoán, làm vua 10 năm
(1128-1138) đã thực hiện nhiều hoạt động tích cực nhằm ổn định xã hội, tăng cường
sức mạnh của đất nước và được đánh giá là vị vua biết “sửa sang chính sự, nhậm
dụng hiền năng, đặt khoa Hoành từ, định lệnh binh nông, xét về mặt chính trị
cũng là bậc siêng năng” (Việt giám thông khảo tổng luận).
Đền Lý Bát Đế |
Trong thời gian làm vua, Lý Thần Tông đã
đặt 2 niên hiệu là:
- Thiên Thuận (1128- 1133) nghĩa là thuận
theo mệnh Trời.
- Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138) nghĩa là
mệnh Trời rạng rỡ tôn quý.
6. Lý Anh Tông tên thật là Lý Thiên Tộ, ở ngôi vua 37 năm
(1138-1175), tỏ ra là người biết quản lý, điều hành chính trị, “không mê hoặc
lời nói đàn bà, ký thác được người phụ chính hiền tài, có thể gọi là không hổ
thẹn với trách nhiệm gánh vác” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Trong thời gian làm vua, Lý Anh Tông đã
đặt 4 niên hiệu là:
- Thiệu Minh (1138-1139) nghĩa là nối tiếp
sự anh minh.
- Đại Định (1140-1162) nghĩa là sự ổn định
lớn.
- Chính Long Bảo Ứng (1163-1174) nghĩa là
thiên chính ứng với đạo Trời.
- Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175) nghĩa là
Trời cảm động mà ban vật quý.
7. Lý Cao Tông tên thật là Lý Long Trát, làm vua trong 35
năm (1175-1210) tuy cũng làm được một số việc mà sử sách ghi nhận là tốt, nhất
là giai đoạn những năm đầu làm vua nhưng chủ yếu ham chơi, đắm chìm trong tửu
sắc. Sử chép: “Vua chơi bời không điều độ, hình chính không rõ ràng, giặc cướp
như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy kém” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Trong thời gian làm vua, Lý Cao Tông đã
đặt 4 niên hiệu là:
- Trinh Phù (1176- 1186) nghĩa là theo phù
mệnh Trời để bền vững.
- Thiên Tư Gia Thụy (1186-1202) nghĩa là điềm
lành Trời ban.
- Thiên Gia Bảo Hựu (1202- 1205) nghĩa là
Trời ban phúc phù hộ họ Lý.
- Trị Bình Long Ứng (1205-1210) nghĩa là
đất nước thái bình thịnh trị với điềm rồng ứng hiện.
8. Lý Huệ Tông tên thật là Lý Hạo Sảm, ở ngôi trong 14
năm (1211-1224) khi mà vương triều nhà Lý đã suy yếu, ông không có đủ tài để
khắc phục những điều đó. Sử sách bình rằng: “Đến đời Huệ Tông cái rường mối hư
hỏng của thiên hạ đã quá lắm mà vua thì không phải người giỏi giang cứng cáp,
bề tôi giúp nước thì nhu nhược hèn kém, muốn chữa mối hư hỏng lâu ngày thì làm
thế nào được. Huống chi Huệ Tông lại bị chứng hiểm, chữa thuốc không được; lại
không có con trai để nối nghiệp lớn. Thế là cái điềm nguy vong đã hiện ra rồi”
(Đại Việt sử ký toàn thư).
Trong thời gian làm vua, Lý Cao Tông chỉ
đặt một niên hiệu là Kiến Gia, có nghĩa là xây dựng sự tốt lành.
9. Lý Chiêu Hoàng tên thật là Lý Phật Kim, làm vua hơn 1
năm, từ tháng 10 năm Giáp Thân (1224) đến tháng 12 năm Ất Dậu (1225) thì bị họ
Trần lập kế cướp ngôi thông qua “vở kịch” vợ nhường ngôi cho chồng. Tuổi thơ
lên ngôi báu khi mà vương triều đã suy vong đến cùng cực, không thể vực dậy
được nữa nên kết cục của triều Lý đến đời Lý Chiêu Hoàng thì phải rời bỏ vũ đài
chính trị. Trong thời gian làm vua, Lý Chiêu Hoàng chỉ đặt một niên hiệu là
Thiên Chương Hữu Đạo nghĩa là đạo Trời sáng tỏ.
Có thế thấy rằng, triều Lý khởi nghiệp từ Lý Thái Tổ và truyền tới
Lý Chiêu Hoàng, trải qua 216 năm tồn tại với 9 đời vua nối nhau trị vì, mặc dù
có những thăng trầm, biến cố nhưng đây là triều đại được sử sách đánh giá cao
bởi “không có vua nào thất đức lớn, nhiều vua thánh hiền, lâu năm thái bình, từ
thời tiền cổ đến khi ấy chưa có triều đại nào hơn. Đại ước cách thống trị của
đời vua chỉ cần pháp độ chứ không cần người cho lắm, chính sự chuộng khoan hậu
không chuộng sự bạo tàn, đương khi vô sự thì cứ theo sách cũ giữ chế độ cũ, tuy
là vua còn nhỏ tuổi mà vẫn thống trị nổi thiên hạ” (Việt sử
tiêu án).
Xét ở khía
cạnh hẹp, niên hiệu của các vị vua triều Lý đã cho thấy rằng những điều tốt đẹp
gửi gắm trong đó đã được các hoàng đế của vương triều này hiện thực hóa trong
đời sống ở mức độ khác nhau, nó chính là những dấu ấn lớn của triều Lý qua các
công trình vật chất và tinh thần đến nay vẫn được lưu truyền, gìn giữ và được
người đời ngợi ca, ngưỡng mộ.
(Hết)
-------------
#Guang
----------
Xem phần đầu tại đây
Nhận xét
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết.