Để lẩn tránh và bảo toàn sự tồn
tại của mình trước những xung đột, đấu tranh giữa các thế lực phong kiến Lê –
Trịnh, năm 1558. Nguyễn Hoàng đã buộc phải tìm cách rời khỏi Đàng Ngoài. Theo lời
khuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585): “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung
thân”, Nguyễn Hoàng đã nhờ chị của mình là Ngọc Bảo nói với anh rể Trịnh Kiểm
(1503 – 1573) để được vào trấn thủ Thuận Hóa. Trước những tiềm lực phát triển của
vùng đất mới, vị chúa khai mở đất Đàng Trong dần dần thay đổi tư duy, xa dân với mô thức kinh tế nông nghiệp truyền
thống để hướng mạnh về phía biển với các hoạt động giao thương diễn ra sôi nổi
trên các cảng thị của Đàng Trong.
Các nguồn tư liệu chính sử đều
cho biết rằng, Nguyễn Hoàng bắt đầu sự nghiệp tại Thuận Hóa năm 1558 và hằng
năm chỉ nộp thuế về cho vua Lê ở Đàng Ngoài.. Trong suốt thời gian làm quan trấn
thủ, chính lối ứng xử mềm dẻo, khôn khéo của Nguyễn Hoàng đã khiến Đoan Quận
Công đã có thêm tiềm lực để tiến gần hơn với biển và tiến xa hơn về phía Nam. Trong
thời gian cầm quyền của mình (1558 – 1613), Nguyễn Hoàng đã hai lần ra Bắc, lần
thứ nhất là năm 1569 – 1572 và lần thứ hai là năm 1593 – 1600. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục còn
biên chép rõ sự kiện Nguyễn Hoàng ra Bắc năm 1569 như sau: “Tháng 9 năm 1569,
mùa thu, Thái tổ Gia Dụ hoàng đế ta đi ra Tây Kinh, yết kiến nhà vua ở hành tại
An Tràng. Bái Yết nhà vua xong, Gia Dụ đến phủ Thượng tướng (Trịnh Kiểm), anh
em tình tự, rất là hòa thuận thân yêu”[1].
Chép về sự kiện này, Đại Việt sử kí toàn
thư cũng ghi rõ: “Mùa thu, tháng 9 (1569), trấn thủ Thuận Hóa là Đoan Quận
công Nguyễn Hoàng vào chầu, lạy chào ở hành tại; lại đến phủ Thượng tướng lạy mừng,
giãi bày tình cảm anh em, rất thương yêu quý mến nhau”[2].
Như vậy, theo như miêu tả của chính sử thì mối quan hệ giữa Trịnh Kiểm à Nguyễn
Hoàng là vô cùng hòa hảo, thân thiết. Nguyễn Hoàng dường như là một trợ thủ đắc
lực, một vị quan trung thành của chính quyền Đàng Ngoài, được cử đi giúp vua Lê
cai quản, ổn định, giữ vững vùng biên viễn. Tuy nhiên, nếu đặt sự kiện này
trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, chắc chắn đây là một bước đi chính trị đầy
tính toán của Nguyễn, bởi lẽ sự kiện Nguyễn Hoàng ra yết kiến vua Lê diễn ra chỉ
một năm sau khi quan trấn thủ Quảng Nam là Bùi Tá Hán qua đời năm 1568, “Mậu
Thìn, năm thứ 11 (1568), mùa xuân, tháng 3, Tổng trấn Quảng Nam là Bùi Tá Hán
(bấy giờ xưng là Trấn Quận Công) chết. Vua Lê lấy Nguyễn Bá Quýnh (bấy giờ xưng
là Nguyên Quận Công) làm Tổng binh, thay giữ đất ấy”[3].
Đồng thời cũng chỉ sau đó một năm, Đoan quận công đã có được vùng Quảng Nam và
được bổ nhiệm kiêm lãnh hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, “năm thứ 13 (1570), Nguyễn
Bá Quysnh về, sai Đoan Quận Công kiêm hành thức thống suốt tổng trấn tướng hai
xứ Thuận – Quảng, cầm binh voi và thuyền để trấn thủ dân địa phương. Họ Nguyễn
gồm có hai xứ tự bấy giờ”[4].
Như vậy, lần ra Bắc đầu tiên của Nguyễn
Hoàng đã giúp cho Đoan Quận Công có được vùng Quảng Nam. Kiêm lãnh xứ Quảng
Nam là một thành công rất lớn của Nguyễn Hoàng trong sự nghiệp tách Đàng Trong ở
phương Nam thành một thế lực độc lập với Đàng Ngoài ở phương Bắc. Thực tế thì
chỉ sauu khi có thêm đất Quảng Nam cùng với sự tự chủ về mặt chính trị, Đoan Quận
Công mới có điều kiện xây dựng và phát triển xứ Thuận Hóa. Trong sự đi lên của
Đàng Tong, Quảng Nam đóng vai trò quan trong. Bởi lẽ đây không chỉ là vùng dất
giàu có, trù phú với da dạng nguồn thương phẩm mà còn có thương cảng quốc tế Hội
An, hải cảng quốc tế sầm uất và lớn nhất của Đàng Trong. Thực tế đã cho thấy,
Quảng Nam và Hội An giữ vị trí không thể thay thế trong quá trình phát triển
kinh tế hải thương của vùng Thuận – Quảng.
Nếu sự kiện Nguyễn Hoàng được
kiêm trấn thủ Quảng Nam là móc mở đầu ch ý đồ xây dựng một thể chế cát cứ trên
vùng đất Phương Nam, thì lần ra Bắc cuối cùng 1593 – 1600 càng khẳng định quyết
tâm xây dựng một vương quốc riêng biệt của Nguyễn Hoàng. Ở lại đất Bắc giúp họ
Trịnh chống lại dư đảng của nhà Mạc (1527 -1592) đang trỗi dậy ở nhiều địa
phương trong cả nước. Những việc làm của Nguyễn Hoàng trong suốt thời gian này,
một mặt cho thấy cách ứng xử khéo léo của Đoan Quận Công với nhà Lê, nhưng mặt
khác, Nguyễn Hoàng đã có nhiều thời gian để khảo sá, nhận định về tình hình
chính trị của Đàng Ngoài để từ đó có bước đi phù hợp. Bên cạnh đó, những trận đánh giữa Nguyễn Hoàng với dư đảng
nhà Mạc dax cho thấy tài năng quân sự biển của chúa Tiên. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho
biết: “Năm 1593, Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta từ Thuận Hóa vào chầu được tấn
phong Thái Úy Đoan Quận Công cầm quân đi đánh giặc. Trước kia, Thái Tổ Gia Dụ
hoàng đế ta ở Thuận Hóa hơn 20 năm, từ nhân dân đến các man di thảy điều mến phục.
Bờ cõi và biên giới đều phẳng lặng yên ổn. Đến đây ngài đem tướng sĩ và binh
thuyền vào chầu, dâng nộp sổ sách về quân, dân và kho tàng ở hai xứ Thuận Quảng”[5].
Cùng với những trận đánh với nhà Mạc, Nguyễn Hoàng còn giúp giúp chúa Trịnh ổn
định nhiều địa phương ở miền Bắc như Hải Dương, Thái Nguyên. Những chiến thắng
quân sự của Đoan Quận Công được sách Khâm
Định Việt sử thông giám cương mục không ngớt lời ca ngợi “đánh đâu được đấy,
uy danh lững lẫy”. Tài năng của Nguyễn Hoàng không chỉ bộc lộ trong các trận
chiến với nhà Mạc tại Đàng Ngoài, mà tại Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã sớm ý thức
được việc bảo vệ miền duy hải trước sự tấn công của nhà Mạc. Năm 1560, chỉ sau
khi vào trấn thủ Thuận Hóa được hai năm, Đoan Quận Công đã nhanh chống đặt đồn ở
cửa biển để giữ miền duy hải, vì quân Mạc thường theo đường biển vào cướp Thanh
– Nghệ. Quả là không nằm ngoài những suy tính của Nguyễn Hoàng năm 1572, tướng
nhà Mạc là Lập Bạo đã đem một lực lượng binh thuyền lớn tấn công vào Đàng
Trong. Nuyễn Hoàng đã cho đóng quân bên bờ sông Ái Tử và theo Đại Nam thực lục thì nhờ sự giúp dỡ của
một vị thần sông, Đoan Quận Công đã đánh tan được quân nhà Mạc. Những chiến
công chủ yếu nhờ vào lực lượng thủy quân, điêu này cho thấy Đoan Quận Công rất
thuần thục với những trận thao chiến trên sông nước, hẳn là môi trường sông nước Đàng Trong là điều kiện
thuận lợi cho Nguyễn Hoàng tôi luyện và phát huy khả năng quân sự, tài thao diễn
trên sông, biển của mình.
Trong tám năm ở Đàng Ngoài, Nguyễn
Hoàng đã có nhiều cơ hội xem xét, so sánh tình hình chính trị, kinh tế giữa hai
miền trước khi đưa ra được lựa chọn của mình. Để từ đó, đến năm 1600, Nguyễn
Hoàng đã buộc phải vận dụng mưu kế để “trốn” về Đàng Trong và không bao giờ trở
lại Đàng Ngoài nữa. Khâm Định Việt sử
thông giám cương mục cho biết: “Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta có công to, Trịnh
Tùng thấy thế đem lòng ghen ghét, tám năm không cho về trấn. Gặp lúc ấy, bạn Ngạn,
Đình Nga và Văn Khuê làm phản ở cửa biển Đại An, Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta
nhân đem quân tiến đánh, bèn đem tướng sĩ thuyền chiến trong bộ thuộc mình,
phóng ra biển về Thuận hóa, bởi thế lòng người xao xuyến”[6].
Hình ảnh Đoan Quận Công trở về Thuận Hóa đã khẳng định quyết tâm của Nguyễn
Hoàng trong việc xây dựng một mô hình năng động tại Đàng Trong. Có thể nói “Đoan
Quận Công đã hoàn toàn quay lưng lại thế giới nơi ông được dựng lên và cũng là
nơi ông tiến hành tham vọng của mình suốt hơn nửa thế kỷ. Có khả năng bởi rằng
một thế giới khác đã vẫy gọi. Một thế giới chưa định hình đã được bài trở thành
nơi người Việt Nma tìm thấy sự giải thoát khỏi những đòi hỏi truyền thống, nơi
những sử gia Việt Nam mô tả như một miền duyên hải thiên đường của hòa bình, phồn
vinh và những thương nhân ngoại quốc”[7].
Như vậy, nếu như lần ra bắc đầu
tiên Nguyễn Hoàng đã có được xứ Quảng thì lần ra Bắc thứ hai này đã đặt dấu mốc
quan trọng trong sự nghiệp gây dựng vương quốc riêng biệt ở phía Nam của chúa
Tiên. Từ những tìm hiểu, kiểm nghiệm sâu sắc về mô hình kinh tế của chiasnh quyền
Thăng Long trong sự đối sánh ới Thuận Hóa, giữa một bên là nền kinh tế hướng mạnh
về nông nghiệp, một bên là kinh tế là hải thương năng động, đã buộc Nguyễn
Hoàng đưa ea quyết định của chính mình. Những nguồn hàng, thương cảng cùng các
mối giao thương đã như một mãnh lực lôi cuốn Nguyễn Hoàng, khẳng định cho sự lựa
chọn đúng đắn của chúa Tiên. Cũng từ đây, Nguyễn Hoàng đã dành trọn cuộc đời
mình để gây dựng phát triển xứ Thuận Hóa trở thành vùng đất đầy sức sống nhờ
vào những nguồn thương phẩm và các đoàn thuyền buôn. Cho tới khi trao lại quyền
hành cho hoàng tử thứ sáu Nguyễn Phúc Nguyên, Đoan Quận Công vẫn thể hiện tầm
nhìn hướng mạnh mẽ về biển, khi nhấn mạnh những nguồn lợi mà biển mang lại “Đất
Thuận – Quảng phía bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) à sông Gianh (Linh Giang) hiểm
trở, phái Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) ững bền. Núi sẵn
vàng, sắt, biển có cá, muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy
dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. ì
bằng thế lực không địch được thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ
qua lời dặn của ta”[8]
Vũ Thị Xuyến, Tư duy và chính sách
hướng biển của Nguyễn Hoàng trong GS. Phan Huy Lê, PGS.TS. Đỗ Bang (đồng chủ
biên) (2014), Nguyễn Hoàng – Người mở cõi, NXB. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, tr.295-302.
[1] Quốc sử quán triều Nguyễn,
Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
Bản dịch của Viện sử học, NXB.Gíáo dục, Hà Nội, 2007, t.II, tr.147.
[2] Ngô Sĩ Liên và các sử thần
triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư,
NXB.Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, t.III, tr.145.
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn,
Đại Nam thực lục, tập 1, NXB. Giáo dục,
Hà Nội, 2006, tr.29.
[4] Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, NXB. Văn hóa thông
tin, Hà Nội, 2007, tr.61.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn,
Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, sđd,
tr.201.
[6] Quốc sử quán triều Nguyễn,
Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, sđd,
tr.227.
[7] Keith Taylor, “Nguyễn
Hoàng và bước khưởi đầu cuộc Nam Tiến”, Tạp chí Xưa và Nay, số 104, tháng
11-2001, tr.8/
[8] Quốc sử quán triều Nguyễn,
Đại Nam thực lục, tập 1, NXB. Giáo dục,
Hà Nội, 2006, tr.37.
Nhận xét
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết.