Tầm nhìn của chúa tiên Nguyễn Hoàng: Khởi tạo nghiệp chúa


Chúa tiên Nguyễn Hoàng (1525 – 16130 là con trai thứ hai của An Thành hầu Nguyễn Kim. Chúa người Gia Miêu ngoại trang nay thuộc thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân trong gia đình đại quan, từ nhỏ lại được người cậu ruột là Thái phó Uy quốc công Nguyễn Ư Dĩ nuôi dạy, chúa Nguyễn Hoàng đã thừa hưởng trí tuệ xuất sắc hơn người: “tướng mạo khôi ngô, vai lân lưng hổ, mắt phượng trán rồng, thông minh, tài trí, kẻ thức giả đều biết đấy là bậc phi thường”[1]. Công lao tạo dựng sự nghiệp của dòng họ Nguyễn và mở mang bờ cõi về phương Nam khởi nguồn đều từ tầm nhìn sắc sảo, phi thường của chúa.
Bối cảnh khủng hoảng chính trị trầm trọng cuối thời Lê Sơ và nội chiến Lê – Mạc kéo dài gần suốt thế kỉ XVI là một bi kịch lớn của Đại Việt. Chúa Nguyễn Hoàng cũng như thân phụ ông An Thành hầu Nguyễn Kim vừa là tác nhân vừa là nạn nhân của bi kịch đó. Làm trai thời loạn, Nguyễn Hoàng sớm trải qua những thách thức nghiệt ngã của số phận: Chứng kiến cái chết tức tưởi của cha và anh trai, đối diện với sự chuyên quyền, lấn át vua Lê của anh rễ Trịnh Kiểm, bản thân nhiều phen thoát chết trong đường tơ kẽ tóc… Không còn lựa chọn lựa chọn nào khác, năm 158, Nguyễn Hoàng cùng với khoảng 300 tráng đinh được Thái phó Nguyễn Ư Dĩ theo phò rời quê hương Thanh Hóa, dong thuyền ra biển hướng về phương Nam, mưu sự “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Buổi đầu chạy vào phương Nam với nhiệm vụ trấn thủ đất Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng không mong gì hơn là được yên thân trước mưu lược thâm sâu của người anh rể Trịnh Kiểm, nên giữ đạo bề tôi “Trấn thủ Thuận Hóa, thu nộp tô thuế để chi dùng vào việc nước”[2].
Năm 1570, Trấn thủ Nguyễn Bá Quýnh được gọi ra giữ đất Nghệ An, Nguyễn Hoàng được giao thêm xứ Quảng Nam. Từ đó, lãnh thổ dưới quyền Tổng trấn Thuận – Quảng trải qua từ bờ nam sông Gianh đến đèo Cù Mông (tương ứng với các địa bàn Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày này). Tháng Giêng thượng tướng (Trịnh Kiểm) dâng biểu tâu vua cho Nguyễn Hoàng đi các xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, thống suất binh tượng, thuyền bè và trấn phủ dân địa phương để cõi phiên trấn được vững mạnh. Thượng tướng khuyên răn Hoàng rằng: “Nhà nước trao cho khanh chức nhiệm nặng nề này, khanh nên trước sau một tiết, dốc hết tâm sức như xưa phò tá nhà vua”[3]. Nguyễn Hoàng bề ngoài giữ lễ bầy tôi, nhưng bên trong đã ngầm hiểu thâm ý của họ Trịnh muốn tìm kế loại trừ họ nguyễn, nên tích cực trù liệu kế lập nghiệp lâu dài trên đất phương Nam. Nhất là kể từ sau cái chết của Trịnh Kiểm (tháng 2-1570), con Trịnh Kiểm là Trịnh Cối thay lĩnh binh quyền. Bây giờ Trịnh Cối buông thả trong tửu sắc, ngày càng kiêu ngạo, không coi tướng lĩnh, binh lính ra gì. Các tướng lĩnh dần lìa bỏ Trịnh Cối, nhiều kẻ còn rắp tâm sinh biến. Để khống chế Nguyễn Hoàng, họ Trịnh ra sức ràng buộc, kiểm soát . Năm 1573, Trịnh Tùng được vua Thế Tông phong Tả tướng Thái úy, Tiếc chế các xứ thủy bộ chư dinh, kiêm Tổng nội ngoại binh chương quân quốc trọng sự. Mọi công việc đều được tự xử quyết trước rồi sau mới tâu. Trịnh Tùng để khống chế Nguyễn Hoàng, “sai sứ mang sức thư vào Thuận Hóa phong Đoan quận công Nguyễn Hoàng làm Thái phó, sai chứa thóc để sẵn dùng nơi biên ải. Còn tiền sai dư thì hằng năm phải nộp 400 cân bạc, 500 tấm lụa”[4].  Lợi dụng đường đất xa xôi, lại thêm chiến sự khốc liệt, Nguyễn Hoàng thường mượn cớ thoát thác họ Trịnh và càng tích cực “thủ thê”, gây dựng sự nghiệp. Về việc này, Đại Việt sử kí toàn thư dẫn lời trách cứ của Trịnh Tùng với Nguyễn Hoàng đã chép: “Tiên tổ mất đi, tiên khảo là Minh Khang Thái vương giữ trọng trách của nước, thấy cậu là người ruột thịt, trao cho hai xứ Thuận, Quảng. Cậu từ khi nhận mệnh lệnh, vỗ yên dân địa phương , thực là có công. Tiên khảo chầu trời, cháu giữ binh quyền, vẫn để cậu giữ chức cũ. Nhiều lần gửi thư thư giục cậu đốc thu tiền thuế, vận tải lương thực để giúp việc chi dùng của nhà nước, cậu thường lấy cớ đường biển gian nan, hiểm trở để từ chối…”[5].
Năm 1592, quân Lê – Trịnh chiếm lại Thăng Long, Nguyễn Hoàng ra chúc mừng vua Lê đã về lại kinh đô. Trịnh Tùng muốn “điệu hổ ly sơn”, tâu với vua Lê phong Nguyễn Hoàng làm Thái úy Hữu tướng, trên danh nghĩa vẫn giữ chức Tổng trấn Thuận – Quảng, nhưng phải lưu lại Kinh đô vô thời hạn để giúp triều đình đánh dẹp dư đảng nhà Mạc. Nguyễn Hoàng phải ẩn nhẫn sống cảnh “cá chậu chim lồng” trong tám năm trời. Năm 1600, nhân có vụ khởi binh chống Trịnh Tùng nổ ra ở Nam Định, Nguyễn Hoàng xin đem quân bản bộ theo đường biển đi đánh, giả vờ thua rồi về thẳng Thuận Hóa. Từ đó, Nguyễn Hoàng không đặt chân ra Thăng Long nữa.
Kể từ năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, chúa chọn đóng trị sở tại gò Phù Sa, làng Ái Tử thuộc huyện Đăng Xương (đời Lê là Vũ Xương), huyện Triệu Long, tỉnh Quảng Trị ngày nay. Tương truyền, khi Nguyễn Hoàng mới đến Ái Tử, dân sở tại đem dâng bảy vò nước trong. Quan Thái phó Nguyễn Ư Dĩ nói với Đoan Quận công: Ấy là điềm trời cho ông nước đó! Làng Ái Tử nằm bên bờ sông Thạch Hãn, được Nguyễn Hoàng xây thành lũy Ái Tử vững chắc và phát triển sản xuất nông nghiệp, mở cảng Cửa Việt để giao thương với bên ngoài. Năm 1570, Nguyễn Hoàng dời thủ phủ về thôn Trà Bát, cách Ái Tử khoảng hai cây số, nhưng đến năm 1590 thấy Trà Bát bất lợi nên lại dời về Ái Tử. Từ sông Thạch Hãn, Nguyễn Hoàng cho đào một con sông dào dẫn vào Ái Tử, ở mạn phía đông. Nhánh sông đào này là để vận chuyển lương thảo. Phía nam Ái Tử là đạo quân dự bị tức Hậu Kiên, còn quanh Ái Tử có Tiền Kiên, Trung Kiên, Tả Kiên, Hữu Kiên. Đó là Ngũ Kiên tức năm đạo quân lớn do chúa Nguyễn Hoàng lập nên và trực tiếp chỉ huy. Mạn nam sông Thạch Hãn là nơi bố trí các xưởng đúc vũ khí, tiền kẽm; mạn bắc đặt các kho hậu cần kéo dài cho đến các làng Trà Bát, Trà Liên, Ái Tử trở thành thủ phủ đầu tiên và cũng là thành lũy và điểm tập kết quân sự quan trọng của dòng họ Nguyễn trên đất Đàng Trong. Từ Ái Tử, Nguyễn Hoàng hoạch định chiến lược và trực tiếp chỉ huy xây dựng cơ nghiệp lâu dài của họ Nguyễn.
Năm 1613, chúa Nguyễn Hoàng qua đời ở tuổi 89. Trước khi về với tiên tổ, chúa dặn dò con trai thứ sau là Nguyễn Phúc Nguyễn: “Đất Thuận – Quảng phía bắc có Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá, muối. Thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dày dận luyện binh để chống trọi với họ thì đủ dựng xây cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được thì cũng cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”[6].
Vâng lời di huấn của cha, chúa Nguyễn Phúc Nguyên “sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục”[7]. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên công khai không thuần phục họ Trịnh nữa: không nộp phú thuế, không nhận sắc phong, không ra Thăng Long mà cũng không gửi con thay mình ra Thăng Long như họ Trịnh đòi. Trịnh đem quân vào đánh nhưng cả thảy sáu lần đều không thành công đành phải rút về, chấp nhận lấy sông Gianh làm ranh giới của Đàng Ngoài và Đàng Trong. Đến đây, ý nguyện xây dựng “cơ nghiệp muôn đời” của Nguyễn Hoàng được thực hiện

Trích PGS.TS. Trần Thị Mai, Tầm nhìn của chúa Nguyễn Hoàng in trong GS. Phan Huy Lê – PGS.TS. Đỗ Bang, Nguyễn Hoàng – người mở cõi, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.257-262.




[1] Dẫn lời Lê Đức Dục: “Nhà Nguyễn – lịch sử thăng trầm của một dòng họ”, kỳ 5, báo Tuổi trẻ online, ngày 13-12-2008.
[2] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.III, tr.173.
[3] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, sđd, t.III, tr.173.
[4] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, sđd, t.III, tr.187-188.
[5] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, sđd, t.III, tr.256.
[6] Quốc sử quán triều Nguyễn: Đai Nam thực lục, NXB. Thuận Hóa, Huế, 2007, t.1, tr.37.
[7] Quốc sử quán triều Nguyễn: Đai Nam thực lục, sđd, t.1, tr.38.


Nhận xét