Tư tưởng về đạo trời và mối quan hệ giữa người với trời thời Lê Trung Hưng (1533 - 1789)


Tư tưởng về đạo trời, mối quan hệ giữa người với trời được các nhà tư tưởng đưa ra nhằm giải thích “mệnh trời” và vai trò của con người. Với những luồng tư tưởng mới được truyền vào của Nho giáo là Tống Nho (Lý học) đến sự kết hợp giữa tam giáo đã xuất hiện những nhà tư tưởng mới về đạo trời, quan niệm về mối quan hệ giữa trời và người. Có khi “mệnh trời” được đề cao, có khi vai trò của con người được đề cao. Các nhà tư tưởng lớn trong thời kì này với sự loạn lạc, những công việc khác nhau đã xuất hiện tư tưởng triết học về đạo trời và mối quan hệ giữa người với trời cũng khác nhau.
Trịnh Bỉnh Khiêm. Nguồn: soha.vn
 Với Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng “Thái cực sinh trời, đất và người, do sự nặng nhẹ của khí mà ra. Ông quan niệm rằng “Trời là giới tự nhiên chứ không phải là thượng đế có nhân cách, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, giữa trời và người có sự thống nhất, trời và người có cùng quan hệ với nhau lại cùng phù hợp với nhau”[1]. Nhưng ông lại không thấy được đặc điểm của con người, xã hội, đánh đồng quy luật tự nhiên với quy luật xã hội, từ đó dẫn đến quan điểm thần bí, số mệnh “chữ rằng phú quý giai do mệnh, gặp được bao nhiêu hay bấy nhiêu”, “Xia mau cùng cực hay thông suốt đều do mệnh”, “đừng lấy làm lạ ở đời có nhiều việc trái ý”. Ông xem giới tự nhiên là trời, nên “đạo trời” theo ông có đặc điểm đầu tiên bao trùm là khiến cho muôn vật trong trời đất luôn luôn sinh sôi nảy nở. Ông viết: “Muốn biết cơ trời sinh sôi thần diệu, hãy xem mai nở tháng rét, sẽ thấy một khí dương sinh ra”, sinh sôi tạo nên biến chuyển theo vòng tuần hoàn tức là có đi rồi có lại “suy từ tượng của tám quẻ, biết sự vãng (đi tới), phục (trở lại) của trời”.
Điều này diễn ra một cách khách quan, ngoài ý muốn của con người. Ông khuyên con người nên an phận, theo mệnh trời. Điều này đã hạn chế tính tích cực của con người. Nhưng đó là từng thời kì, từng thời đại “có khi năng lực của con người, tức chủ thể hành động không đủ điều kiện để giải quyết một vấn đề nào đó của hoàn cảnh khách quan mà cứ cố làm thì thất bại là điều không tránh khỏi. Trong trường hợp đó, biết sức của mình, biết phận của mình, yên với phận lại là điều cần thiết”[2].
Phùng Khắc Khoan. Nguồn: daithachthat.gov.vn
Phùng Khắc Khoan cũng thừa nhận “có mệnh trời”. Điều đó cũng dễ hiểu, vì trời là sự vận động bên ngoài của con người, sự hiểu biết của con người về giới tự nhiên là hạn chế. Tuy nhiên, việc thừa nhận “có mệnh trời” không mang ý nghĩa thụ động phó mặc cho trời, ông cho rằng “việc đời xem ra tựa giòi bọ, sự sắp xếp giàu sang mặc kệ trời”.
Mặc dù sống ở thời loạn, con đường quan võ dễ thăng tiến nhưng ông lại tin rằng “đợi đến lúc thái bình, dân tình tốt lúc bấy giờ mới tin rằng đọc sách là điều cao quý”, “điểm báo vận tốt của trời đất đã tới”, “thời đến thì công danh của ta sẽ rạng rỡ ” hay “làm trai mà có thể làm nên danh giá, thì lẽ nào chỉ là một đấng trượng phu ngang tàng”[3]. Có thể thấy rằng, ông cho rằng “có mệnh trời” nhưng vẫn lạc quan, vẫn kiên định ý chí. Con người có năng lực, có thể kiên trì mà đợi chờ vận mệnh để tiến tới thắng lợi.
Lê Quý Đôn. Nguồn: soha.vn
Lê Quý Đôn cho rằng “Thái cực là một, là một khí hỗn nguyên, từ một sinh ra hai, hai sinh ra bốn, thành ra vạn vật”. “Khí” ở đây được xem là bản nguyên của trời đất, vạn vật, “Trời” tích chứa khí, không có nơi chốn và không có hình. Mặt trời, mặt trăng và tinh tú thì tích chứa khí mà có ánh sáng chói lọi vậy thôi”. Ông quan điểm “Khí trời chìm xuống, khí đất bổng lên, hơi khí của trời và của đất đều là sinh ý”, “cơ mẫu khi bĩ khi thái, khi trị khi loạn, đúng là như thế”.
Chúng ta thấy rằng, Lê Quý Đôn xem trời đất cũng có “tính tình”. Bên cạnh đó, ông coi “vận mệnh do người tạo ra, chứ không phải vận mệnh tạo ra người, cái lý trời và người hợp nhất”. Nhưng ông cũng cho rằng “việc hưng thịnh hay đồi phế của nước, số phận của sĩ phu đều được định trước ở cõi u minh thiêng liêng”. Ở ông “tuyệt đối không thể chỉ dựa vào sự vật bên ngoài mà càng phải chính tâm thành ý”, có thể thấy vai trò con người dần được đề cao, cho dù có mệnh trời, “trời có tình ý”.
Lê Hữu Trác. Nguồn: vtc.vn
Lê Hữu Trác cho rằng “từ chỗ mờ mịt chưa có gì (vô cực) đến khi hình thành (thái cực). Thái cực động thì sinh dương, tĩnh thì sinh âm, khi có khi duỗi, khi đầy khi vơi”[4]. Từ đó, ông cho rằng “người ta sinh ra trong khoảng giữa hai khí âm, dương của trời đất, thì trong thân thể con người cũng đủ hình thành thái cực”, và cho rằng “phàm trăm bệnh của người ta không gì là không do âm dương chênh lệch nhau; đều đó quan hệ đến sống chết”. Cơ thể con người là một bộ phận của tự nhiên. “Lúc đầu không có bệnh, sau do thiên lệch, mất sự cân bằng của âm dương ngũ hành nên bệnh tật phát sinh. Từ đó, ông xây dựng nên học thuyết tâm thận (thủy hỏa), ông đề cao yếu tố dương, tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo học thuyết âm dương ngũ hành trong điều kiện cụ thể của Việt Nam”[5].
Chúng ta thấy rằng ông đã gạt bỏ số mệnh, và cho rằng sức khỏe con người là do điều hòa khí âm dương. Giữa hình thể hay tinh thần của con người thì ông cho rằng “thể xác của con người quyết định tinh thần và ngược lại, tinh thần phụ thuộc vào thể xác”. Khẳng định điều này, để thấy quan điểm ý lý của ông khi chữa bệnh cho người.

Trần Hoàng

(Trích tiểu luận Tư tưởng Việt Nam thời Lê Trung Hưng 1533 - 1788)




[1] GS.TS. Nguyễn Hùng Mậu (2010), Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.308.
[2] Nguyễn Tài Đông (chủ biên – 2015), Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội,, tr.159.
[3] Nguyễn Tài Đông (chủ biên – 2015), sđd, tr.172, 174, 175.
[4] GS.TS. Nguyễn Hùng Mậu (2010), sđd, tr.328.
[5] Doãn Chính (2013), Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam từ thời kì dựng nước đến thế kỉ XX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.654.

Nhận xét