Ai được xem là “tổng công trình” sư của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Phân tích các nội dung của “Chương trình hành động đầu tiên”?
Cuối thế kỷ 19,
sau khi phong trào Cần Vương kết thúc, thực dân Pháp gần như đã bình định xong
Việt Nam về mặt quân sự. Lúc này đây thực dân Pháp đã có thể bắt tay vào công
cuộc khai thác thuộc địa trên bình diện và quy mô lớn hơn trước rất nhiều và
người được xem là “tổng công trình sư “, người đặt những viên gạch vững chắc đầu
tiên cho công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp với quy mô trên toàn
cõi Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng chính là toàn quyền Đông Dương
Paul Doumer (1897 – 1902).
Vì sao Paul Doumer
lại được xem là “ tổng công trình sư” của công cuộc khai thác thuộc địa? Paul
Doumer được xem là “ tổng công trình sư” bởi vì trước khi ông đến thì vốn dĩ thực
dân Pháp cũng đã có những bước đi đầu tiên để tiến hành khai thác thuộc địa mà
nơi đầu tiên được tiến hành chính là Nam Kỳ. Tuy nhiên các chính sách của các
thống đốc Nam Kỳ và sau này là toàn quyên Đông Dương đều không tạo được sức bật
cho vùng đất thuộc địa mới này của nước Pháp có thể vì nhiệm kỳ của các ông quá
ngắn chỉ khoảng từ 1 – 2 năm thì với khoảng thời gian ngắn như vậy thì không đủ
để vạch ra một chính sách dài hơi đồng thời các vị toàn quyền trước Paul Doumer
còn phải đối phó với làn sống nổi dậy của nhân dân cũng như sự phản kháng của
triều đình, và chỉ đến năm 1896, khi thực dân Pháp cơ bản đã bình định xong các
cuộc khởi nghĩa thì lúc này Pháp mới có thể rảnh tay cho công cuộc khai
thác này. Paul Doumer đã được chọn và chỉ trong một thời gian ngắn độ khoảng chừng
1 tháng sau khi đi khắp các vùng đất của Đông Dương ông đã gửi một bản báo cáo
về Bộ Thuộc địa Pháp nêu ra những điểm hạn chế của bộ máy thuộc địa hiện tại ở
Đông Dương và ông cũng đã đưa ra một
chương trình hành động gồm 7 điểm để khắc phục cũng như tổ chức lại toàn bộ
Đông Dương mà theo ông là để cung cấp cho Đông Dương:” một công cụ tổ chức, một
kế hoạch tổng quan rồi sau đó thực hiện một cách có phương pháp và có tính liên
tục, khi các khả năng được tạo ra, các nguồn lực cần thiết được cung cấp.
Chương trình hành động đầu tiên gồm 7 điểm như sau:
1. Tổ
chức Phủ toàn quyền và các bộ máy cai trị địa phương;
2. Cứu
vãn tình hình tài chính hiện tại và thiết lập các nguồn lực cho tương lai bằng
cách tạo ra một chế độ tài khóa thích hợp với từng địa phương, với tình trạng
xã hội, phong tục tập quán của dân cư cũng như các yêu cầu về ngân sách của mỗi
địa phương đó;
3. Cung
cấp cho Đông Dương các công cụ phát triển kinh tế, các hệ thống đường sắt, đường
bộ, đường bộ và cảng để phát huy giá trị của xứ này;
4. Tăng
cường sản xuất và thương mại thuộc địa bằng cách thúc đẩy công cuộc khai thác thuộc địa của người
Pháp và tạo thêm việc làm cho người bản xứ;
5. Đảm
bảo việc phòng thủ ở Đông Dương bằng cách thiết lập các vùng yểm trợ của hạm đội
cũng như tăng cường quân đội thuộc địa và các căn cứ hải quân tại thuộc địa;
6. Hoàn
tất công cuộc bình định Bắc Kỳ, đảm bảo hòa bình và sự ổn định trên các tuyến
biên giới của vùng này;
7. Mở
rộng ảnh hưởng của Pháp, phát triển các lợi ích của Pháp tại Viễn Đông, nhất là
tại các quốc gia láng giềng với thuộc địa.
(Trích “Xứ Đông Dương” – Paul Doumer)
Như vậy qua nhưng
điểm của chương trình hành động này có thể nói Paul Doumer đã vạch ra một chính
sách khai thác thuộc địa có chiến lược lâu dài, đặt những nền móng đầu tiên để
những người kế nhiệm sau đó kế thừa trong các giai đoạn sau này mặc dù có những
lúc gián đoạn nhưng vẫn dựa vào nó là chủ yếu. Và có thể thấy Paul Doumer xoay
quanh vào hai mảng là kinh tế và bộ máy hành chính.
Để làm rõ sự thành
công của “Chương trình hành động” mà Paul Doumer đưa ra thì chúng ta sẽ đi sâu
vào từng điểm của chương trình.
Trước
hết là “1. Tổ chức phủ toàn quyền và bộ máy cai trị địa phương”
Trong khoảng thời
gian 1 tháng tìm hiểu Đông Dương, Paul Doumer đã đi đến quyết định thành lập một
tổ chức trung ương hay có thể nói là một
Chính Phủ thuộc địa tại Đông Dương. Chính phủ này sẽ điều hành chung những vấn
đề thuộc địa đồng thời cũng sẽ tổ chức những bộ máy cai trị phù hợp với đặc điểm
từng vùng địa phương và đây sẽ là một hệ thống thống nhất mà như Paul Doumer đã
phát biểu khi tới Đông Dương: “ cai trị khắp nơi và không quản lý nơi nào cả”.
Các cơ quan hành chính riêng rẽ trước đó cũng sẽ được tổ chức lại một cách tập
trung. Paul Doumer đã có một loạt hành động cho chính sách này:
Đầu tiên ông trao
quyền giải quyết tất cả các vấn đề thuộc địa dù là nhỏ nhất cho Toàn quyền Đông
Dương ( Toàn quyền Đông Dương trước đó chỉ là người cai quản Bắc Kỳ) và để thực
hiện điều đó ông đã đưa sự hiện diện của mình ở Nam Kỳ vốn đã có bộ máy cai trị
được xác lập từ năm 1861 mà theo ông hiện tại nó đang trở nên hỗn loạn nên cần
phải thay đổi ở nơi này và đặt lại chức thống sứ Bắc Kỳ có nhiệm vụ quản lý
hành chính Bắc Kỳ.
Kế đến ông cho thành
lập một Hội đồng Tối cao Đông Dương mà ban đầu Hội đồng này bao gồm Tư lệnh Hải
quân và Tư lệnh Bộ Binh, các Thống sứ và vị Phó Toàn quyền, các chủ tịch Phòng
Thương mại, Phòng Canh nông và các phòng hợp nhất. Hội đồng này sẽ đại diện cho
lợi ích chung của thuộc địa và đem đến sức mạnh cho Toàn quyền cũng như đưa ra
các cải cách cần tiến hành sau này.
Sau đó,Phủ Toàn
quyền đã được cơ cấu lại gồm 4 phòng đặt dưới sự quản lý của Chánh Văn phòng:
Phòng chính trị, Phòng Hành chính, Phòng Quân sự, Phòng Nhân sự và Ban Thư ký.
Đây là nơi tập trung kiểm soát mọi vấn đề và giải quyết các vấn đề chuyên biệt
về đối ngoại và đối nội.
Ở tại Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và các xứ bảo hộ, người đứng đầu sẽ là một Thống sứ hoặc Khâm sứ. Một
hội đồng Bảo hộ cũng được thành lập có nhiệm vụ giúp đỡ Thống sứ đưa ra các ý
kiến về các dự thảo chính sách có tầm quan trọng và ngân sách địa phương. Ngoài
ra dưới Thống sứ còn có các cơ quan công quyền địa phương như Ty hành chính
công, Ty thếu vụ, Kho bạc địa phương, Ty học chính, Ty nông nghiệp…
Như vậy có thể thấy
điều đâu tiên mà Paul Doumer nhắm đến khi đến Đông Dương lại thiết lập lại bộ
máy cai trị thiết lập sự cai trị lên toàn cõi Đông Dương chứ không đơn thuần chỉ
có một vùng Nam Kỳ, vùng Bắc, Trung Kỳ , Cao Miên chỉ còn mang tên là vùng đất
bảo hộ trên danh nghĩa còn thực tế đã là một chế độ trực trị với một Chính phủ
Thuộc địa điều hành từ trung ương đến địa phương.
Sau khi thiết lập
tổ chức hành chính thì Paul Doumer hướng đến khắc phục sự thâm hụt ngân sách và
đề ra những giải pháp mới để vực dậy cũng như phát triển nền kinh tế Đông Dương
hiên đang rất bấp bênh với đã được thể hiện trong những điểm tiếp theo của
chương trình hành động.
Điều được hướng đến
tiếp theo là “2.Cứu vãn tình hình tài chính hiện tại và thiết lập các nguồn lực cho
tương lai bằng cách tạo ra một chế độ tài khóa thích hợp với từng địa phương, với
tình trạng xã hội, phong tục tập quán của dân cư cũng như các yêu cầu về ngân
sách của mỗi địa phương đó;”
Phải nói rằng Paul Doumer là người hoạch định
chính sách tài năng ông không chỉ hướng đến cứu vãn nền tài chính mà ông còn muốn
tạo một nguồn vốn để phát triển xứ thuộc địa Đông Dương này. Ông chỉ trong một
thời gian ngắn đã nhìn ra được nguồn lực, điều kiện tự nhiên ở mỗi vùng là khác
nhau cho nên không thể xây dựng một chính sách tài khóa rập khuôn theo trung
ương mà cho phép mỗi địa phương có một chính sách riêng sao cho phù với diều kiện
từng vùng cũng như phong tục tập quán của vùng đó.
Điều Paul Doumer
đã làm ngay trong năm 1897 là ông đã thiết lập một ngân sách trung ương và đã
được Bộ thuộc địa phê duyệt vào tháng
7/1898. Ngân sách này sẽ được đặt dưới sự kiểm soát của Hội đông Tối cao, đây
là ngân sách chung cho các hoạt động của chính quyền nhằm xây dựng xứ Đông
Dương. Không chỉ hình thành ngân sách trung ương mà đến năm 1899 ở Đông Dương
có thêm các nguồn ngân sách địa phương của Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên
và Ai Lao.
Kế đến là thiết lập
một chế độ thuế thống nhất bao gồm thuế trực thu và thuế gián thu. Thuế trực
thu được phân bổ lại cân đối hơn giữa các tỉnh và các làng, chỉ tăng thuế ở những
nơi vốn cho tới hiện tại được ưu đãi để cân bằng giữa các tỉnh và các làng. Thuế
gián thu được thu thông qua các mặc hàng được tiêu thụ chủ yếu là rượu, muối và
thuốc phiện. Và theo như nhận định của Paul Doumer thì chính sách thuế mới đã
giúp cho xứ Đông Dương khép lại năm tài khóa với thặng dư ròng là trong năm
1897 là 982.811 piastre mà trước đó mà dự báo là sẽ bị thâm hụt.
Như vậy từ các việc
làm cụ thể từ chính sách trên đã giúp cho Đông Dương có một khoản thu lớn thoát
khỏi sự khó khăn tài chính mà còn đem đến một nguồn thu lớn khi mà đến năm 1901
Đông Dương đã có gần 30 triệu phăng trong các quỹ dự trữ. Mặc dù chính sách thuế
khóa trên đã gây ra nhiều khó khăn cho người dân xứ thuộc địa nhưng nhờ nó mà nền
tài chính của Đông Dương đã được vực dậy bước đầu đi vào phát triển.
Để có thể duy trì
được các nguồn thu trên cũng như tạo được sức bật về phát triển kinh tế thì
Paul Doumer phải: “3.Cung cấp cho Đông
Dương các công cụ phát triển kinh tế, các hệ thống đường sắt, đường bộ, đường bộ
và cảng để phát huy giá trị của xứ này;”
Đây là một trong những điểm
quan trọng cho việc tạo sức bật cho kính tế Đông Dương. Để có thể tiến hành
khai thác thuộc địa một các có hiệu quả thì cần phải có các phương tiện khai
thác mà trước hết chính là giao thông, nếu giao thông có thuận lợi thì mới có
thể khai thác triệt để được xứ thuộc địa với nhiều tài nguyên khoáng sản này.
Paul Doumer đã cho
thiết lập một hệ thống xe chung gồm một đường xe lửa xuyên Đông Dương
(Transindochinos) nối liền Hà Nội với Nam Vang và một đường xe lửa xâm nhập tỉnh
Vân Nam được khởi động vào năm 1898 với tên gọi là “chương trình Doumer” tuy
nhiên cho tới khi hết nhiệm kỳ của mình thì chỉ có hai đoạn đi vào hoạt động là
Sài Gòn – Mỹ Tho và Hà Nội – Lạng Sơn. Các công trình đường xá cũng được xây dừng
nhiều cây cầu bằng sắt được dựng nên như cầu Doumer (sau đổi tên thành cầu Long
Biên,cầu Thành Thái (tức cầu Tràng Tiền) bắc qua sông Hương ở Huế và cầu Bình Lợi
bắc qua sông Sài Gòn .Các hải cảng cũng được
mở như cảng Hải Phòng, Đà Nẵng,Sài Gòn… các công trình này đã tạo nên sự thuận
lợi cho việc khai thác thuộc địa cũng như thuận lợi cho công cuộc vận chuyển
hàng hóa, nối kết thị trường ở các vùng của Đông Dương.
Như vậy có thể nói
Doumer đã thiết lập nên hệ thống giao giông cơ bản cho Đông Dương để tạo ra một
sức đẩy cho nền kinh tế thuộc địa, mà những người kế nhiệm ông đã được thừa hưởng
những thành tựu đáng giá mà Paul Doumer đã thiết lập nên cho vùng đất viễn Đông
xa xôi này.
Paul Doumer cũng
đã nhìn nhận một điều cho việc phát triển kinh tế thuộc địa chính là:”4. Tăng cường sản xuất và thương mại thuộc
địa bằng cách thúc đẩy công cuộc khai
thác thuộc địa của người Pháp và tạo thêm việc làm cho người bản xứ”.
Nước Pháp cần phải đẩy mạnh khai thác những
tài nguyên thiên nhiên vùng đất này có đồng thời cũng phải tận dụng được nguồn
nhân công ở đây mà theo như Paul Doumer nhận xét thì: “người An Nam là những
người lao động mẫu mực, những nông phu giỏi việc đồng áng, những người thợ lành
nghề, những nghệ nhân khéo léo và thông minh.” Cho nên Doumer phải tận dụng được
nguồn nhân công này bằng cách thiết lập các cơ sở kinh tế như các đồn điền, nhà
máy để có thể tập trung được sức lao động của người bản xứ và thúc đẩy kinh tế
xứ thuộc địa.
Không chỉ chú trọng
đến kinh tế Paul Doumer còn chú ý đến vấn đề quân sự:” 5.Đảm bảo việc phòng thủ ở Đông Dương bằng cách thiết lập các vùng yểm
trợ của hạm đội cũng như tăng cường quân đội thuộc địa và các căn cứ hải quân tại
thuộc địa;”
Khi mà vào thời điểm
bấy giờ khi mà các nước phương Tây đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị
trường của chủ nghĩa tư bản thì đối với một vùng đất xa xôi này vấn đề phòng thủ
cũng rất quan trọng. Pháp không thể để mất một vùng đất mà họ đã phải mất gần
ba thập kỷ mới có thể chiếm cứ được nên giờ đây hk phải bảo vệ lấy nó đồng thời
cũng là tao ảnh hưởng của Pháp đến với thế giới phương Đông này. Trong khoản thời
gian từ 1897 -1901, lực lượng đồn trú ở Đông Dương được tăng cường; nhiều đơn vị
quân được thành lập và được đặt trong tình trạng vừa phòng thủ thuộc địa vừa sẳn
dàng hành động ra bên ngoài nếu cần thiết.
Một hệ thống phòng
thủ gồm bảy ụ pháo được xây dựng tại Ô Cấp (Vũng Tàu), đây là phòng tuyến mà kẻ
địch phải đánh bại nếu muốn tiến vào cửa sông Sài Gòn. Song song đó thì một công
trình phòng thủ cũng được xây dựng tại cảng Hòn Gai và có ý định biến nơi đây
thành một căn cứ hổ trợ chủ yếu ngang hàng với Sài Gòn – Vũng Tàu.
Như vậy đi đôi với
việc phát triển kinh tế thuộc địa thì chính sách của Paul Doumer cũng rất chú
trọng đến việc phòng thủ Đông Dương khi đây là một vùng thuộc địa quan trọng của
nước Pháp. Hệ thông này cũng được tổ chức rất chặt chẽ.
Bên cạnh những điều
trên thì vấn đề Bắc Kỳ cũng cần Paul Doumer giải quyết nếu muốn ổn định tình
hình Đông Dương để có thể tiến hành khai thác bởi vì vào lúc bấy giờ vẫn còn lực
lượng của phong nông dân Yên Thế của Đề Thám còn đang hoạt động kế đến là quân
cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, nạn thảo khấu ven biên giới Trung Quốc – Việt Nam sẽ ảnh
hưởng không nhỏ đến vấn đề khai thác thuộc địa cũng như giao thương với Trung
Hoa cho nên Doumer cũng rất chú trọng đến những vấn đề còn tồn đọng ở Bắc Kỳ
trước khi ông đến và được thể hiện trong chính sách của ông ở điều sáu là:”6.
Hoàn tất công cuộc bình định Bắc Kỳ, đảm bảo hòa bình và sự ổn định trên các
tuyến biên giới của vùng này;”. Ông đã thực hiện đi vào giải quyết vấn đề Bắc Kỳ
khi mà ông đã cho tướng Pennequin trấn áp các toán thảo khấu người Trung Hoa với
các đầu lĩnh là Mac và Mamang dọc biên giới ở vùng Tây Bắc. Và ông cũng cho tướng
Lefevre tấn công lên Yên Thế buộc Đề Thám phải hòa hoãn lần thứ 2 để tránh tổn
thất về lực lượng. Như vậy về cơ bản Doumer đã giải quyết ổn thỏa vấn đề Bắc Kỳ
tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khai thác thuộc địa của mình.
Và điều cuối cùng
trong chương trình của Paul Doumer đó là: “7.Mở
rộng ảnh hưởng của Pháp, phát triển các lợi ích của Pháp tại Viễn Đông, nhất là
tại các quốc gia láng giềng với thuộc địa.”.
Ông là một người
Pháp cho nên việc gây ảnh hưởng của nước Pháp đến các nước xung quanh Đông Dương
cũng là một phần quan trọng nó cho thấy sự lớn mạnh của nước Pháp ở vùng Viễn
Đông đồng thời có thể xem đây là hình thức để Pháp cạnh tranh với đối thủ truyền
kiếp của mình là Anh về vấn đề thuộc địa. Và nếu gây được ảnh hưởng của Pháp
sang các nước xung quanh sẽ có thể tạo một điều kiện nào đó cho Pháp mở rộng
thuộc địa ở vùng Viễn Đông này đồng thời nâng cao được vị thế của nước Pháp trước
các nước phương Tây đặc biệt là Anh.
Qua những điều đã
phân tích trên đây dựa trên các hoạt động thực tiễn tương ứng với “Chương trình
hành động” mà Paul Doumer đã đưa ra có thể nói ông thực sự là một nhà hoạch định
chiến lược đại tài khi mà ông đã giải quyết các vấn đề tồn động trước đó cũng
như đưa Đông Dương phát triển về kinh tế đưa về chính quốc những nguồn thu rất
lớn mặc dù chính vì các chính sách của ông mà nhân dân thuộc địa đã phải chịu sự
bốc lột và khổ cực. Tuy nhiên nếu nhìn nhận dưới góc độ của một người Pháp thì
những điều ông làm cũng vì Tổ quốc của ông là nước Pháp, ông muốn biến xứ Đông
Dương một thuộc thành niềm tự hào của người Pháp trước thế giới. Các điểm ông
đã đưa ra trong “Chương trình hành động” của mình có thể nói là tương đối toàn
diện về mọi mặt từ kinh tế - chính trị - quân sự. Điểm thiếu của ông có lẽ là vấn
đề xã hội ông chưa thực sự chú trọng đến đời sống của nhân dân thuộc địa.”Chương
trình hành động đầu tiên” này thật sự là một thành công khi giúp đặt nền móng đầu
tiên cho công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp tại Đông Dương. Nếu nói vì sao
“Chương trình hành động” của ông thành công thì có thể vì ông có thời gian ở
Đông Dương nhiều hơn những người trước để thực hiện những dự định của mình; thứ
hai là tình hình Đông Dương lúc đó về cơ bản là hòa bình khi mà các phong trào
khởi nghĩa đã bị dọn dẹp nên có điều khiện để ông viến hành. Có thể nói là Paul
Doumer đã mở ra thời kỳ mới về công cuộc thuộc địa của Pháp tại Đông Dương với
“Chương trình hành động” đặt nên những nền móng cho những người tiền nhiệm tiếp
bước sau này và cũng đã để lại những hệ quả nhất định cho vùng đất Đông Dương
này.
*Tài
liệu tham khảo
1/ Việt Nam thời
Pháp đô hộ - Nguyễn Thế Anh – NXB Khoa học xã hội
2/ Xứ Đông Dương
(Hồi Ký) – Paul Doumer – NXB Thế Giới
3/ Việt Nam Pháp
thuộc sử 1862 -1945 - Phan Khoang – Tủ sách sử học Phủ Quốc vụ Khanh đặc trách
văn hóa xuất bản, SG.
4/ Lịch Sử Việt Nam Từ Nguồn Gốc Đến Giữa Thế Kỉ XX – Lê Thành Khôi – NXB
Nhã Nam
Dương Minh Nhật
Nhận xét
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết.