Triều đại Lê Sơ là một triều đại mà nho giáo đã trở
nên cốt lõi trong xã hội, chi phối mạnh mẽ đời sống xã hội. Mà tư tưởng Nho
giáo là mang tính chất trị nước sâu sắc, nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
dựa vào nó. Thời Lê Sơ, nhất là Lê Thánh Tông nhà nước trung ương tập quyền về
cơ bản đã hình thành. Việc hình thành nên một nhà nước trung ương tập quyền đó
là một quá trình hoàn thiện diễn ra trên những điều kiện khách quan và chủ
quan. Quá trình hoàn thiện đó được thể hiện qua cơ chế tổ chức
bộ máy dưới thời các vua Lê Sơ và được những vương triều sau tiếp nối và phát
huy. Và mô hình nhà nước này cũng là sự kế thừa và phát huy của những gì trước
nó. Trong vòng 100 năm tồn tại, những ảnh hưởng của nhà Lê, nhất là về cơ cấu bộ
máy quan lại cho đến đời sau ngày càng sâu sắc. Chỉ có thể đặt nó vào đúng hoàn
cảnh lịch sử thì mới hiểu đúng vị trí, vai trò của nó.
1.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, nhà Lê Sơ ra đời.
Cuối thời Trần, do tình hình đất nước loạn lạc, triều đình không yên.
Nhất là từ thời Trần Dụ Tông rồi đến hết đời, nhà Trần luôn xuất hiện những cuộc
nội chiến trong hoàng tộc, và cuộc khởi nghĩa của nông dân. Do nhà Trần đang
trên đà suy thoái, Hồ Quý Ly quyền cao rất lớn đã lộng quyền, ép vua dời đô, chuẩn bị mưu kế soán
vị. Đến năm 1400, Hồ Quý Ly soán vị hoàng đế là cháu của mình, lên làm vua, lập
ra triều Hồ. Rồi sau đó, ông nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương lên làm Thái
Thượng hoàng. Tuy nhiên, do tính chất như vậy mà nhà Hồ không được lòng dân. Chỉ
được 7 năm thì đến năm 1407, lấy danh nghĩa phò Trần, quân Minh xâm lược và
chính quyền nhà Hồ bị thất bại mau chóng cho dù các được vũ khí cấp tiến. Nước
ta lại rơi vào tay phương Bắc hơn 20 năm.
Tiếp sau đó, là hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nổi lên,
các cuộc đấu của nhà Hậu Trần, là những người nuôi mộng khôi phục vương triều do con cháu nhà
Trần lãnh đạo. Nhưng do mâu thuẫn nội bộ, sự đoàn kết của dòng tộc đã không còn
như xưa, quyền lực được đặt lên đầu nên cũng mau chóng thất bại. Rồi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê
Lợi lãnh đạo đã thắng lợi và đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi nước ta, khôi phục lại nền
độc lập hơn 20 năm bị đô hộ. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, lập ra nhà Lê và
quá trình xây dựng bộ máy trung ương được tiến hành.
Như vậy, nhà Lê Sơ ra đời là do sự thắng lợi của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự chỉ huy của Lê Lợi
trước quân Minh đô hộ. Chiến thắng này là đã đáp ứng được nhu cầu giành độc lập
dân tộc. “Lê Lợi là người mưu trí và hào
hiệp, giao lưu rất rộng, đãi người rất hậu, không những trong nhà tụ tập gia
nhân rất đông và được nhân dân địa phương mến phục, lại chiêu đãi được nhiều
nhân tài và được rất nhiều hào kiệt trong nước về theo. Thanh danh của Lê Lợi
khiến từ khi chưa khởi nghĩa quân giặc đã phải ngờ, nhưng phải kiêng nể. Lê Lợi
là người độ lượng và khôn khéo cho nên thu nạp được nhân tài đủ các tầng lớp
trong xã hội”[1].
Đồng thời, ông cũng tỏ ra là người thân dân, “chăm chú vỗ về, rất lưu ý gây
tình đoàn kết”, rất được nhân dân ủng hộ; tài dụng binh; sự lãnh đạo sáng suốt
đã làm nên chiến thắng vang dọi trước kẻ thù xâm lượng, đô hộ giặc Minh.
2.
Cơ sở kinh tế
Những biến chuyển về kinh tế từ cuối thời Trần sang đầu
thời Lê Sơ là điều kiện để nhà Lê tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước trung ương
tập quyền cao độ hơn so với những thời trước. Thương nghiệp với kinh tế tiền tệ
dần dần phát triển trong thời kì Trần đến thời Hồ đã càng “lay chuyển” mạnh lên nền kinh tế tự nhiên.
Nền tự chủ được khôi phục và cuộc thống nhất được củng cố lại càng khiến công thương nghiệp phát
triển thêm. Đồng thời, nhờ chính sách “trọng nông” được đặc biệt chú ý, nông
nghiệp cũng phát đạt.
Tình hình chiếm hữu ruộng đất cũng có những biến đổi.
Trải qua sự suy tàn của chế độ đại điền trang cùng các chính sách kinh tế và xã
hội của nhà Hồ, như phép “hạn điền”, phép “đạc điền” một phần lớn ruộng đất của
vương hầu quí tộc cùng một phần ít ruộng đất của địa chủ thường và có lẽ một phần
ruộng đất của nhà chùa đã chuyển thành công điền. Đến thời Minh thuộc, phần lớn
ruộng công lại bị bọn quan lại đầu hàng và bọn cường hào chiếm lấy. Đến năm
1429, Lê Thái Tổ đã định phép “quân điền”. “phàm
ruộng công ai đã nhận loạn ly mà chấp chiếm đều phải trả lại, các ruộng đất của
các ngụy quan (làm quan cho giặc), ruộng đất trang trại của các thế gia nhà Trần
mà đã tuyệt nghiệp (trải qua thời nhà Hồ và thời đô hộ của nhà Minh. Một phần lớn
các thế gia cũ đã điêu tàn), ruộng đất tư và chủ nhân lưu tán hay chết chóc mà
bỏ hoang, đều bị sung làm của công, cùng với ruộng nhà nước (quan điền, ruộng
quốc khố…) thời trước và ruộng đất hoang nhàn, để làm công sản của Nhà nước đem phân cấp cho
quan và dân”[2].
Bên cạnh đó, quyền sở hữu ruộng tư cũng đã dần được
xác lập. Trải qua thời Lý- Trần, “chế độ thổ địa tư hữu” đã phát triển. Số địa
chủ và nông dân tự canh có tư điền sang thời Lê Sơ lại đông thêm. Các quan được
triều đình cấp ruộng công, dần dần chiếm nó làm ruộng tư. Theo luật nhà Lê mà đỉnh
cao là luật Hồng Đức thời Lê Thánh Tông quy định về việc mua bán, cầm cố, chuộc,… ruộng đất thuộc
quyền sở hữu. Điều đó chứng minh rằng, ruộng đất tư hữu ở thời Lê Sơ đã chiếm
phần quan trọng. Tuy nhiên so với ruộng công thì diện tích vẫn còn hẹp hơn.
Nhưng trong giai đoạn đầu, để hạn chế “chế độ đại điền trang”, đồng thời phát
triển “chế độ tư hữu thổ địa”, nên buổi đầu còn miễn thuế cho tư điền.
Nhưng cho dù là ruộng công hay ruộng tư, ruộng công của
nhà nước hay ruộng cấp cho quí tộc và quan liêu hay cho đến ruộng tư của các hạng
địa chủ đều do nông dân nghèo lãnh canh theo “chế độ tá điền”. Phần vì do sự
điêu tán của các đại điền trang và do phép “hạn nô” của nhà Hồ, nên “chế độ
nông nô” trên thực tế đã suy tàn. Người lãnh canh phải nộp tô, có khi lại phải
làm việc không công (một hình thức lực dịch) cho địa chủ, nhưng theo phép ấy
thì thân phận của họ là tự do, họ không phải suốt đời bám chặt với đất cày như
ruộng nô. “Quan hệ sản xuất cơ bản của chế độ phong kiến ở thời Lê Sơ là quan hệ
giữa địa chủ và tá điền”.
Nhìn chung, trên lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta thấy
rõ “chính sách quân điền” dường như bao trùm nền kinh tế. Phép “quân điền” được
thực hiện hoàn chỉnh dưới thời Lê Thánh Tông và ruộng công làng xã được phân phối
theo sự chỉ đạo của nhà nước. Quỹ đất
theo đơn vị làng xã, có thể điều chỉnh chút ít giữa các xã lân cận. Đối tượng
được chia ruộng kể từ các quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc có ít lộc điền) được
chia 11 phần tới các loại cô nhi, quả phụ được 3 phần. Người cày ruộng phải nộp
tô cho Nhà nước (các quan tam, tứ phẩm thì được miễn). Loại công điền quân phân
này trên danh nghĩa thuộc quyền sở hữu Nhà nước, do làng xã quản lý và các hộ
gia đình sử dụng.
Chính sách “quân điền" thời Lê sơ là một bước
trong quá trình phong kiến hóa làng xã, chuyển từ nền kinh tế điền trang quý tộc
sang nền kinh tế tiểu nông. Qua đó, Nhà nước đã nắm được làng xã và dân chúng
tăng nguồn thu nhập (qua nghĩa vụ tô thuế, lao dịch, binh dịch). Mặt khác, phát triển được
sản xuất và ổn định được đời sống nhân dân. Đó là một biện pháp tích cực trong
chính sách ruộng đất thời Lê sơ, nhưng sau đã dần dần mất tác đụng do nạn chấp
chiếm ruộng đất. Bên cạnh ruộng công, ruộng tư thời Lê Sơ cũng đã phát triển, một số là của địa chủ
quan liêu và đại bộ phận là của địa chủ bình dân. Ruộng tư không phải nộp tô
cho Nhà nước. Nhà nước thừa nhận nhưng không khuyến khích loại ruộng này. Bộ luật
nhà Lê, nhất là chương Điền sản đã nói đến các thủ tục làm văn tự khế ước trong
vấn đề bán nhượng, tranh chấp kiện tụng hoặc thừa kế về ruộng đất. Sự phát triển
của ruộng tư thời Lê sơ phản ánh xu thế phát triển khách quan về ruộng đất
trong lịch sử Việt Nam, xác lập quan hệ sản xuất phong kiến phổ biến địa chủ -
tá điền trong xã hội. Tuy nhiên, đây là một quá trình tư hữu hóa không tự
nhiên, không được Nhà nước khuyến khích, nên đã dẫn đến những tệ nạn như chiếm
công vi tư, chấp chiếm ruộng đất... dần dần đi tới tình trạng khủng hoảng ruộng
đất.[3]
Nhà nước Lê Sơ một mặt dung dưỡng nền sản xuất nhỏ thủ công nghiệp trong các
làng xã, mặt khác đẩy mạnh
hoạt động của các quan xưởng thuộc thủ công nghiệp Nhà nước. Ở nông thôn, đã xuất
hiện nhiều làng chuyên nghề như Bát Tràng (gốm sứ), Huê Cầu (nhuộm thâm). Ở kinh thành Thăng Long,
Dư địa chí ghi lại một số phường chuyên
nghề nổi tiếng như Tàng Kiếm làm kiệu, áo giáp, Yên Thái làm giấy, Nghi Tàm và
Thuỵ Chương dệt vải lụa, Hà Tân nung vôi, Hàng Đào nhuộm điều, Tả Nhất làm quạt,
Đường Nhân bán áo diệp y. Các quan xưởng hay Cục bách tác là những xưởng thủ
công do Nhà nước trực tiếp quản lý và điều hành sản xuất, phục vụ cho nhu cầu của
quan liêu, quân sĩ và dân chúng như các xưởng đúc tiền, chế tạo vũ khí, đóng
thuyền, sản xuất các đồ dùng nghi lễ, phẩm phục. Trong các quan xưởng, Nhà nước
áp dụng chính sách "công tượng". Các thợ khéo bị trưng lập theo nghĩa
vụ lao dịch, được phiên chế thành đội ngũ như binh lính, phải cưỡng bức lao động
dưới sự đôn đốc của các giám đương và chủ ty. Đó là một nền sản xuất bao cấp,
không tiếp cận với thị trường trao đổi buôn bán.
Hoạt động thương nghiệp chủ yếu ở thời Lê sơ là nền
buôn bán nhỏ thông qua mạng lưới chợ ở nông thôn và thành thị. Nhà Lê đã ban
hành lệ lập chợ, khẳng định “trong dân gian hễ có dân là có chợ, để lưu thông
hàng hoá”, quy định nguyên tắc họp chợ luân phiên. Ở Thăng Long - Đông Kinh,
các thương nhân từ các nơi về, đua nhau mở hàng quán phố xá buôn bán. Lúc đầu,
chính quyền địa phương định đuổi họ về nguyên quán, sau theo đề nghị của Quách
Đình Bảo đã đồng ý cho họ ở lại sinh nhai, để cho hàng hóa lưu thông và nhà nước
cũng có được khoản thu từ thuế (1481). Thời Lê sơ, Nhà nước bỏ lệ tiêu tiền giấy
của nhà Hồ, cho lưu thông tiền đồng. Lê Lợi nói: “Tiền là huyết mạch của dân, không thể không
có”. Nhà nước quy định 1 quan là 10 tiền, 1 tiền là 60 đồng, tức 1 quan = 600 đồng.
Riêng việc buôn bán với nước ngoài, Nhà nước đã kiểm soát nghiêm ngặt các cáng
khẩu, như Vân Đồn, Vạn Ninh, (Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), cấm
dân chúng tự tiện buôn bán trao đổi hàng hóa với các tàu buôn ngoại quốc, thi
hành chính sách bế quan toả cảng".
3. Cơ sở xã hội
Xã hội Đại Việt thời Lê Sơ là một xã hội tương đối ổn
đỉnh và phát triển, đồng thời là “một xã hội mang tính đẳng cấp đã chín muối”.
Có hai đẳng cấp là quan liêu và thứ dân (chia thành 4 bốn tầng lớp: sĩ, nông,
công, thương). Đồng thời, quan hệ giai cấp (địa chủ phong kiến và nông dân) đã
đan xen vào các quan hệ đẳng cấp.
Giai cấp đại quí tộc cũ đã bị cải cách của nhà Hồ và
cuộc xâm lược của nhà Minh đánh đổ. Thế lực phong kiến tôn giáo cũng bị suy yếu
từ cuối thời Trần. “Đẳng cấp quan liêu là
lớp quí tộc mới do
nhà Lê xây dựng là xuất thân từ giai cấp bình dân. Trước hết là những công thần,
những tướng sĩ, những liêu
thuộc đã giúp Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa cùng con cháu của họ, về sau
là những con em của các địa chủ phú thương có tài năng và học vấn trúng tuyển ở
các khoa thi văn và võ”[4].
Đây là tầng lớp quan liêu được hình
thành thông qua khoa cử, nhờ con đường khoa cử mà tầng lớp bình dân được tham
gia chính quyền, nhân thế cơ sở xã hội của nhà nước phong kiến đã được mở rộng.
“Giữa đẳng cấp quan liêu mới và đẳng cấp bình dân không có sự phân cách huyền
tuyệt như thời Lý - Trần. Sự phân biệt thân phận trở nên lỏng lẻo”.
Đảng cấp thứ dân được chia thành 4 tầng lớp: sĩ, nông,
công, thương, là đẳng cấp bị cai trị. Nho sĩ là cầu nối giữa bình dân và quan
liêu. Nông dân là tầng lớp xã hội đông đảo nhất đã phân hóa thành nhiều bộ phận:
địa chủ bình dân, nông dân tự lãnh canh, tá điền, Một số cường hào có thể đã xuất
hiện trong làng xã. Địa chủ bình dân cùng với địa chủ quan liêu đã hợp thành
giai cấp phong kiến. Thợ thủ công gồm một số công tượng và chủ yếu là thợ thủ
công trong làng xã. Do quan điểm “trọng nông ức thương” nên thương nhân là tầng
lớp bị xã hội coi “rẻ hơn”, bị coi là “phi nghĩa”, “bất nhân”, bị xem là “con
buôn”.
Cũng như đã nói trên, “chế độ tá điền” được hình thành
và thể hiện rõ mối quan hệ giữa địa chủ và nông dân. Cho dù về tư liệu sản xuất
là ruộng công hay ruộng tư, ruộng công của nhà nước hay ruộng cấp cho quí tộc
và quan liêu hay cho đến ruộng tư của các hạng địa chủ đều do nông dân nghèo
lãnh canh theo “chế độ tá điền”. Phần vì do sự điêu tán của các đại điền trang
và do phép “hạn nô” của nhà Hồ, nên “chế độ nông nô” trên thực tế đã suy tàn.
Người lãnh canh phải nộp tô, có khi lại phải làm việc không công (một hình thức
lực dịch) cho địa chủ, nhưng theo phép ấy thì thân phận của họ là tự do, họ
không phải suốt đời bám chặt với đất cày như ruộng nô. “Quan hệ sản xuất cơ bản
của chế độ phong kiến ở thời Lê Sơ là quan hệ giữa địa chủ và tá điền”.
Chế độ nô lệ ở thời kì này vẫn còn hiện diện nhưng
mang tính hạn chế so với thời Trần. Nhà nước cũng như trong nhà quí tộc, quan
liêu, hào cường, địa chủ vẫn nuôi nô tỳ nhưng số lượng có hạn. “Pháp luật nghiêm cấm các nhà thế gia chứa
chấp các dân nghèo lưu vong làm nô tỳ. Tư Thành cấm các quan và tư nhân không
được nuôi những người Chiêm qui phục làm nô tỳ mà phải phân tháp họ vào các đạo
cho cày ruộng. Tư Thành còn lại hạ chiếu cho người đạo Quảng Nam không được cướp
người Mọi để bán làm nô tỳ cho tư nhân. Nô tỳ cũng có làm ruộng chút ít nhưng
phần nhiều làm công việc phi sản xuất ở trong nhà”[5].
4. Cơ sở tư tưởng văn hóa
Do điều kiện phát triển và sự cai trị của triều đình
mà trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa cũng bị ảnh hưởng. Và việc chọn lấy tư tưởng
Nho giáo làm độc tôn cũng là cơ sở vững chắc cho nhà Lê Sơ hoàn thiện bộ máy
trung ương tập quyền. “Ở thời Lê Sơ, Nho
giáo là độc tôn nên Đạo giáo và Phật giáo đều bị xem là tà giáo”2.
Sự độc tôn Nho giáo của nhà Lê Sơ đã có cơ sở từ lâu và đến lúc này nó đã trở
thành tất yếu.
Như chúng ta biết rằng, từ thời Lý – Trần, Phật giáo
là chủ đạo, là cơ sở tư tưởng chính thống. Đến năm 1370 đời Trần Nghệ Tông, Lê
Quát nhận xét: “Thuyết họa phúc của nhà
Phật tác động đến con người, sao mà được người ta tin theo sâu sắc và bền vững
như thế? Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật thì đâu đến hết
tiền của cũng không sẻn tiếc. Nếu ngày nay, gửi gấm vào tháp chùa thì mừng rỡ
như nắm được khoán ước để lấy quả báo ngày sau. Cho nên trong từ kinh thành,
ngoài đến châu phủ, cho tới thôn cùng ngõ hẻm, hỏng rồi lại sửa, chuông trống lâu
dài chiếm đến nửa phần so với dân cư, đạo Phật hưng thịnh rất dễ mà được rất mực
tôn sùng”[6].Thông qua đó, chúng ta thấy
rằng, Phật giáo cho đến gần cuối thời Trần đã có niềm tin sâu sắc. Nhưng mầm móng của Nho
giáo đã xuất hiện từ rất lâu, nhất là từ đầu thời Trần. Phật giáo có nhiều tông
phái khác nhau, trong số đó có Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông là những
tông phái được người Việt và người Á Đông thích thú. Mật tông thì sở trường về
phía chú niệm thần bí, có ưu điểm là gần gũi với ma thuật dân gian, một tín ngưỡng
quen thuộc của người dân; Tịnh độ tông thì cầu mong vãng sanh tịnh thổ (đất Phật),
phù hợp với khát khao hạnh phúc của người; Thiền tông thì lấy thiền định làm
phương tiện tu tập chủ tính là có thể “kiến tính thành phật”. Tính chất đó, khiến
người Việt Nam chấp nhận cả ba tông phái trên, nhưng không phải là tách rời, mà
là ba trong một, với một trong số đó là nền tảng cơ bản. Đó chỉ có thể là Thiền tông, bởi
từ gốc của nó. Thiền tông đã chứa đựng các yếu tố của Mật tông và Tịnh độ tông.
Lý do trên đã khiến cho người thời Lý – Trần tin theo Thiền Tông mà ở đó đã bao
gồm cả Mật tông và Tịnh độ tông. Thiền học được phát triển mạnh mẽ từ thời Lý
sang thời Trần với sự xuất hiện của những bậc hiền triết, với những tư tưởng
khác nhau làm cho Thiền học phát trển. Nhưng Phật giáo thời Trần là phật giáo
“đa nguyên”, phật giáo có sự kết hợp giữa Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông,
Phật giáo giải thích những vấn đề về họa phúc, may rủi, Phật giáo hứa hẹn đền
bù ở thế giới mai sau, điều này là do chế độ chính trị - xã hội thời Trần tạo
ra.
Chế độ chính trị - xã hội nhà Trần là “chế độ phong kiến
tông pháp quân chủ trung ương tập quyền”. “Chế
độ này lấy tông tộc làm cơ sở pháp chế để phân định quyền lợi, ngôi thứ, cấp bậc
trong xã hội, trong dòng họ thống trị cũng như trong dòng họ khác trong cả nước.
Ở đó quy định người tộc trưởng, do người con trai trưởng đảm nhiệm, có vai trò
chi phối tuyệt đối đối với mọi quyền lợi, kể cả quyền thế tập và quyền ban phát
lợi lộc; ở dòng họ thống trị thì đó là thái tử, nếu gia tộc thì đó là tộc trưởng,
ở gia đình thì đó là gia trưởng. Sự thống trị trong xã hội đó thực chất là sự
thống trị của một họ đối với trăm họ, là sự cai trị của ông vua thuộc dòng họ
thống trị đối với thiên hạ. Đã là dòng họ thống trị thì con cháu đời đời kế
nghiệp thống trị, đã là ông vua thì dù thông minh hay đần độn, khỏe mạnh hay yếu
đuối cũng đều có đủ mọi quyền”[7].
Chế độ này điển hình ở Trung Quốc từ đời Tần và sang đời Hán thì ổn đinh, lấy
tư tưởng Nho giáo làm nền tảng, vì trong nó xuất hiện lý thuyết hỗ trợ chơ sự
thống trị như vậy. Cùng với Phật giáo và Đạo giáo, Nho giáo cũng được truyền
vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Như tính chất cưỡng bức của chính quyền đô hộ mà
nó không được xã hội xem trọng. Ở các vương triều Ngô, Đình, Tiền Lê, Lý tuy
xem trọng Phật giáo nhưng
cũng xây dựng một chế độ mang màu sắc theo dạng chế độ này. Đến thời Trần, nó
đã trở nên hoàn thiện và vững vàng. Vì vậy, Thiền tông phải nhường chỗ cho Nho giáo trong vai
trò chi phối hệ thống chính trị, tư tưởng xã hội. Từ trong khối “Tam giáo nhất
thể” (Nho, Phật, Đạo) là một thể thống nhất đã tồn tại từ trước, Nho giáo được
tách ra và trở thành học thuyết quan trọng nhất đối với triều đình.
Những người đặt cơ sở này đưa Nho giáo lên vị trí độc
tôn sau này chính là “các tôn thất quí tộc
Trần. Những người đi tiên phong trong việc giác ngộ về quyền lợi của dòng họ thống
trị, của giai cấp cầm quền và của dân tộc. Trong số này có những người không phải
tín đồ của Thiền tông, họ đến với Nho giáo và sử dụng Nho giáo không có trở ngại
về mặt tư tưởng; nhưng họ cũng chưa phải là những nhà nho thực thụ mà chỉ là những
người có trách nhiệm với triều đình, bắt gặp những yếu tố tích cực của Nho giáo
có thể phục vụ cho triều đại mình,, nắm bắt lấy và phát huy”[8].
Đó là Trần Thủ Độ,
Trần Thái Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư,… Và cũng từ vua
đầu triều Trần như Thái Tông rồi đến Nhân Tông. Điều đó làm xuất hiện sự chuyển
biến về ý thức trong hành động, Những thay đổi ấy điều thể hiện rõ từ các vị
vua tiếp theo, mà điển hình đầu tiên là Anh Tông. Sự chuyển biến ấy còn làm
thay đổi cơ cấu các tầng lớp trong xã hội, làm xuất hiện một loại “nhân cách lý
tưởng mới”, một phương hướng cải tạo mới đối với con người. Đến giữa thời Trần,
tầng lớp nho sĩ đã vươn lên vị trí hàng đầu và tầng lớp sư sãi phải lùi xuống
hàng thứ hai, trong số họ không ai còn có được sự chú ý của triều đình. Đối với
Nho sĩ, họ vẫn xem Phật giáo là phi lí, là dị đoan, là làm hại tiền của nước của
dân. Lê Văn Hưu phê phán việc làm của Lý Thái Tổ mà nhắc nhở đương thời: “Tiêu phí sức lực của cải cho việc xây chùa,
làm tháp biết bao nhiêu mà kể. Của cải chẳng phải trời mua cho, sức lực chẳng phải thần làm cho, như thế há chẳng
phải là khơi vét máu mỡ của dân ư?”. Trương Hán Siêu: “Chùa bỏ rồi lại dựng, đã không phải ý muốn của ta. Đá dựng lên rồi khắc.
Việc gì để ta phải nói. Hơn nữa đang là lúc thánh triều muốn truyền bá phong
hóa của nhà vua để cứu vãn phong tục đòi bại. Dị đoan nay đáng phải truất bỏ.
Chính đạo đáng phải thi hành”.
Nhưng thực tế, chúng ta thấy rằng Phật giáo đến lúc
này đã đang dần mờ nhạt, tình hình đất nước cuối thời Trần ngày càng rối ren.
Vai trò chấn chỉnh lại triều đình phải dựa vào tầng lớp Nho sĩ. Nhưng cũng có
nhiều thành phần khác nhau: có ý thức đảm đương lấy việc xoay chuyển triều đại,
họ là những con người muốn củng cố xã hội và xây dựng con người bằng các nguyên
lí mà họ tiếp thu được của đạo Nho; một khuynh hướng bắt chước Trung Quốc không
phù hợp với tình hình đất nước, điều đó không những không làm cho triều đại tốt
đẹp hơn mà còn tạo ra một kiểu tư duy lảng tránh những vấn đề bức xúc của thời
đại; một khuynh hướng bắt chước học phong Lý học thời Tống (Lý học luôn luận
đàm xung quanh các phạm trù: thái cực, lý, khí, tính, mệnh và giải quyết mối
quan hệ giữa lý và khí. Xem “lý” hay “khí” có trước mà quên đi thực trạng), hiện
tượng này nếu cứ tiếp diễn thì những nho sĩ đương thời sẽ đi vào hướng hàn lâm,
xa rời thực tế, không có lợi sự phục hưng triều đại. Chính vì thực trạng của
Nho giáo Đại Việt đương thời, yêu cầu đặt ra là cần có một cuộc cải cách triệt
để nhằm đưa Nho giáo trở thành một tư tưởng độc tôn, là nền tảng của một vương
triều. Và chính Hồ Quý Ly là người cải cách và tuy chưa thành công nhưng cơ bản cũng đã làm
thay đổi phần nào.
Như vậy, chính những thay đổi của tư tưởng – văn hóa,
Nho giáo từng bước vươn lên trong các triều đại trước, nhất là thời Trần – Hồ
là tạo điều kiện cho nhà Lê Sơ chọn nó làm tư tưởng nền tảng xây dựng chế độ của
mình. Nhà Lê Sơ từng bước độc tôn Nho giáo thông qua việc coi trọng giáo dục,
ban hành luật pháp làm cho quá trình độc tôn Nho giáo diễn ra nhanh chóng và là
cơ sở tư tưởng cho công cuộc hoàn thiện bộ máy trung ương tập quyền.
Trần Hoàng
Trích từ bài tiểu luận Quá trình hoàn thiện bộ máy trung ương tập quyền dưới thời Lê Sơ (1428 - 1527)
[1] Đào Duy Anh. (2013). Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ
XIX. Hà Nội: NXB. Khoa học xã hội. Tr.323.
[2] Đào Duy Anh. (2013). Sđd. Tr.336-337.
[3] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh. (2013). Sđd. Tr.154.
[4] Đào Duy Anh. (2013). Sđd. Tr.329-330.
[5], 2 Đào Duy Anh. (2013). Sđd. Tr.337-338, 345.
[6] Ngô Sĩ Liên. (1993). Đại Việt sử kí toàn thư, tập II. Hà Nội:
NXB. Khoa học xã hội. Tr.153.
[7] Nguyễn Tài Đông (chủ biên).
(2015). Khái lược Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. Hà Nội: NXB. Đại học sư
phạm. Tr.100
[8] [8] Nguyễn Tài Đông (chủ biên).
(2015). Sđd. Tr.101.
Nhận xét
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết.